Tập 7 - Chương 9 - Những con chim sáo
Vào tháng Tám, ban ngày nóng bức tới mức Laura và Mary phải đi dạo vào sáng sớm trước khi mặt trời lên cao. Lúc đó không khí còn mát mẻ chưa nóng bức lắm. Nhưng mỗi cuộc đi dạo đều có vẻ như một bước đưa tới cuộc đi dạo sau cùng vì không còn bao lâu nữa Mary sẽ đi xa.
Chắc chắn vào mùa thu đó, Mary sẽ tới trường. Từ lâu cả nhà vẫn trông ngóng cô được ra đi và tới lúc này việc sắp thành sự thực thì lại có vẻ như không thể làm. Cũng khó hình dung nổi trường học như thế nào, vì không một ai có dịp thấy một trường học như thế. Nhưng trong mùa xuân đó, Bố đã kiếm được một trăm đô-la rồi vườn rau, lúa mạch, bắp đều đang tươi tốt khác thường và Mary chắc chắn được đi học.
Một buổi sáng đi dạo về, Laura nhận thấy có rất nhiều cỏ ghim vào váy của Mary. Cô thử nhổ ra nhưng chúng bám khá chặt. Cô gọi:
- Mẹ ơi! Tới coi thứ cỏ gì lạ quá. Mẹ cũng chưa từng nhìn thấy thứ cỏ này. Ngọn cỏ tương tự ngạch lúa mạch nhưng xoắn lại và ở cuối là một chiếc hạt có vỏ bọc dài chừng một inch nhọn và cứng như mũi kim gắn trên một cọng đầy lông nhọn ở phía sau. Như những mũi kim thực sự, các hạt cỏ này ghim đầy trên áo của Mary. Những lông cứng ghim theo mũi kim nhọn khá dễ dàng giữ chắc mũi kim không cho kéo lại và chiếc ngạch dài bốn inch giống như chiếc đinh vít xoắn lại, đẩy mũi kim vào sâu hơn nữa.
Mary kêu lên:
- Ui da! Có thứ gì thọc vào người con. Ngay phía trên giầy của cô, một cọng cỏ lạ thọc qua vớ và xoắn đâm vào chân cô. Mẹ nói:
- Loại cỏ này sẽ lấn áp mọi thứ. Mình phải đối phó thế nào vào những ngày tới khi chúng lan khắp đất trại?
Lúc Bố về nhà vào buổi trưa, tất cả đưa thứ cỏ lạ cho Bố coi. Bố nói đó là cỏ kim Tây Ban Nha. Loại cỏ này mà xọc vào miệng gia súc như bò, ngựa thì sẽ cắt đứt môi và lưỡi của chúng. Khi cắm qua lông cừu vào người của chúng, loại cỏ này thường giết chết cừu.
- Con thấy cỏ này ở đâu?
Bố hỏi và mừng là Laura đã không thể chỉ rõ chỗ nào.
- Nếu con không biết đích xác thì chưa có nhiều lắm. Chúng thường mọc thành khóm và lan rộng. Chính xác là các con đi dạo ở đâu?
Laura kể về những nơi cô đã đi qua. Bố nói phải chờ thứ cỏ này mọc lên. Bố nói với tất cả:
- Có người bảo loại cỏ này sẽ chết khi gặp lửa. Lúc này Bố sẽ đốt lửa để diệt tối đa mầm hạt của chúng và vào mùa xuân tới khi những mầm còn sót mọc lại Bố sẽ đốt tiếp để diệt hết.
Bữa ăn trưa có một ít khoai tây đầu mùa, đậu Hà Lan trộn bơ, đậu tây và hành tươi. Bên mỗi chiếc đĩa ăn còn có một chén đầy cà chua chín ăn với đường và kem. Bố nói trong lúc tiếp thêm khoai và đậu lần thứ nhì:
- Tốt, mình đã có những món ăn ngon và có khá nhiều.
Mẹ có vẻ sung sướng:
- Dạ, lúc này mình có thể ăn đủ để bù lại những gì phải chịu đựng trong mùa đông vừa qua.
Mẹ rất tự hào về khu vườn rau cỏ đang xanh tốt.
- Ngày mai, em bắt đầu muối dưa leo, sợi dưa nào cũngchen chúc các trái nhỏ. Những khóm khoai cũng xum xuê đến nỗi khó đụng tay vào gốc cây ở phía dưới.
Bố mừng rỡ:
- Nếu không có chuyện gì xảy ra thì mình sẽ có khá nhiều khoai tây vào mùa đông này.
Mẹ báo tin:
- Không bao lâu nữa, mình còn có món bắp non hầm. Sáng nay, em đã nhìn thấy một số râu bắp bắt đầu sậm màu.
Bố nói:
- Chưa khi nào anh thấy một vụ bắp tốt hơn. Mình sẽ nhờ cậy vào vụ bắp này.
Mẹ nói:
- Còn lúa mạch nữa. - Rồi Mẹ hỏi. - Có chuyện gì không ổn với đám lúc mạch vậy, Charles?
Bố nói:
- Bầy sáo đen phá hư gần hết rồi. Anh không nghĩ ra sớm hơn về cú đánh của một lũ quấy rầy đen đặc như thế. Chúng ăn tất cả những hạt lúa mà chúng tìm được, chỉ còn bỏ sót lại một ít với rơm thôi.
Gương mặt rạng rỡ của Mẹ tối sầm lại nhưng Bố nói tiếp:
- Đừng lo lắng gì, sẽ có một mùa rơm rất khá và ngay sau khi cắt tụ lúa mạch xong, anh sẽ đuổi sạch hết lũ sáo bằng cây súng.
Chiều hôm đó, khi ngẩng nhìn lên từ món đồ đang khâu, Laura thấy một làn khói mỏng đang quằn quại bay lên trong những gợn hơi nóng trên đồng cỏ. Cô nói:
- Đồng cỏ đẹp và dễ thương hết sức. Nhưng không thể đoán trước nổi điều gì sẽ xảy ra. Giống như lúc nào mình cũng phải lo phấn đấu.
Mẹ nói:
- Cuộc sống trên mặt đất này là một trận đánh. Nếu không có một thứ gì để đối phó thì sẽ thành khác hẳn.Nó đã luôn luôn như thế và sẽ còn luôn luôn như thế. Cần nghĩ tới điều đó càng sớm càng tốt và cảm ơn nhiều hơn nữa về những thoải mái con đã có. Nào, Mary, Mẹ sẽ đo vạt áo trên cho con.
Mấy mẹ con đang lo may cho Mary chiếc áo ấm đẹp nhất để tới trường. Trong căn phòng hầm hập nắng qua những tấm ván vách và ván lợp mỏng manh, những miếng len mịn khiến mọi người gần ngộp thở. Mẹ căng thẳng với chiếc áo đẹp nhất. Mẹ đã may xong chiếc áo mát để thực hành theo các mẫu.
Mẹ cắt mẫu bằng giấy báo theo chỉ dẫn của bản sơ đồ may cắt bằng các-tông mỏng. Các đường cắt và hình thù với đủ kích cỡđều được in sẵn trên đó. Điều khó khăn là không có ai hoàn toàn phù hợp với những kích cỡ in trên tấm sơ đồ. Sau khi đo cho Mary xong, Mẹ hình dung và ghi lại kích cỡ từng bộ phận như ống tay, vạt áo trước, thân váy ghi trên sơ đồ rồi cắt mẫu, cắt và ghép lược lớp vải lót. Khi ướm thử lớp áo lót trên người Mary, Mẹ lại phải thay tất cả các đường chỉ.
Từ lâu, Laura không hề biết rằng Mẹ không ưa chuyện may vá. Lúc này gương mặt dịu dàng của Mẹ và giọng nói không vướng một chút chán nản nào cũng không nói lên điều đó. Nhưng vẻ nhẫn nại in hằn quanh khóe miệng của Mẹ khiến Laura hiểu rằng Mẹ ghét việc may vá không kém Laura. Cả hai cũng rất lo lắng vì trong khi mua hàng đã được bà White cho biết người em gái của bà ở Iowa mới cho hay kiểu váy phùng đang trở lại thành mốt phổ biến ở New York. Vì thế chưa thể kiếm nổi vành váy ở thị trấn, nhưng ông Clancy đang tính đặt mua một ít.
Mẹ chưa hết nghi ngại về những chiếc váy phồng:
- Phải nói là Mẹ không hiểu nổi. Năm ngoái bà Boast có một tập sách dành cho phụ nữ của Godey. Nếu lúc này mà Mẹ có một tập mới thì vấn đề sẽ được giải quyết. Nhưng Bố đang phải lo cắt lúa mạch và cỏ khô và tất cả đều quá mệt vào các ngày chủ nhật nên không thể thực hiện một chuyến đi dài trong nóng nực tới trang trại của ông bà Boast. Cuối cùng Bố đã gặp ông Boast tại thị trấn và ông ta cho hay là bà Boast không có tập sách mới nào của Godey.
Mẹ đành quyết định:
- Mình chỉ cần may váy vừa đủ rộng để nếu vành váy phổ biến thì Mary có thể mua ở Iowa. Tạm thời những chiếc váy lót vẫn có thể giữ cho váy phồng được.
Mary được may bốn chiếc váy lót mới, hai chiếc bằng vải thường, một chiếc bằng vải sợi được tẩy trắng và một chiếc bằng vải bông mịn màu trắng. Vòng quanh phía dưới chiếc váy vải bông mịn, Laura cẩn thận đính dải viền len dài sáu bộ mà cô đã đan tặng Mary vào dịp Giáng Sinh.
Hai mẹ con còn may thêm cho Mary hai chiếc váy lót bằng fla-nen màu xám và ba bộ áo váy flanen màu đỏ. Quanh mép viền phía trên những chiếc váy lót, Laura khâu một hàng khâu móc bằng sợi màu vàng tươi. Hàng khâu móc nổi bật trên màu fla-nen xám. Cô khâu móc ngược tất cả các đường khâu của những chiếc váy lót, những bộ áo váy flanen đỏ và quanh các đường viền cổ, các cườm tay của những ống tay áo dài màu đỏ, cô khâu móc một dải sợi màu xanh lơ.
Cô dùng hết số sợi tuyệt đẹp có trong thùng quà Giáng Sinh mùa đông vừa qua nhưng cô hết sức vui vì được làm như thế. Sẽ không có một cô gái nào ở trong trường có được bộ đồ lót đẹp hơn của Mary.
Khi Mẹ khâu xong những đường khâu lật trong các chiếc áo của Mary và ủi phẳng, Laura khâu lòn thêm những gọng xương cá voi vào những đường khâu dưới cánh tay và những đường khâu độn phía trên thân áo trước. Cô khâu hết sức vất vả để giữ cả hai mép thật đều không có một mũi khâu nào trên đường khâu bị nhăn và phần trước áo hiện ra vừa vặn thanh mảnh. Công việc khó khăn này khiến gáy cô nhức nhối.
Lúc này vạt áo trước của Mary đã sẵn sàng để mặc thử lần chót. Màu len nâu mịn được lót bằng màu tơ nâu bóng. Những chiếc nút màu nâu nhỏ cài thẳng xuống ở trước ngực. Cặp theo hàng nút và bọc vòng vạt áo, Mẹ trang trí bằng một dải hẹp kẻ sọc vuông hai màu xanh-nâu với những sợi chỉ vàng chạy ngang. Phần cổ cao của dải vải sọc đã được khâu xong và Mẹ nhấc lên một dải viền váy màu trắng dài đã được xếp nếp. Dải viền ghép khít phía trong cổ áo và buông thõng xuống một chút. Laura nói với Mary:
Ôi, đẹp tuyệt, Mary ơi. Lưng vừa khít không có một vết nhăn và vai cũng vậy. Những ống tay bó vào khuỷu tay thật sát.
Mary nói:
- Nhưng không biết chị có thể tự gài nút nổi...
Laura bước vòng ra phía trước. Cô chỉ dẫn một cách lo lắng:
- Nín hơi lại, Mary. Bây giờ thở ra và nín lại.
Mẹ nói trong vẻ thất vọng:
- Chật quá.
Vài chiếc nút áo lọt vào khuyết một cách khó khăn, vài chiếc khác không thể cài nổi.
Laura nói một cách nóng nẩy:
- Nín thở đi, Mary! Nín thở! Cô cởi thật nhanh những chiếc nút đã cài được.
- Bây giờ thở đi.
Mary thở như bùng ra khỏi thân áo trước.
Mẹ nói:
- Ô, có bao giờ Mẹ lầm lẫn như vậy được. Mới tuần trước chiếc áo còn vừa khít mà.
Laura chợt nghĩ:
- Chắc do dây áo nịt của Mary! Đúng thế rồi. Phải kéo chặt dây áo nịt lại.
Quả là thế. Khi Mary lại nín thở cho Laura kéo chặt dây áo nịt, chiếc áo được cài nút khít khao thật đẹp.
Carrie nói:
- Em mừng là chưa phải mặc áo nịt.
Laura nói:
- Chỉ mừng trong lúc này thôi. Em cũng sắp phải mặc áo nịt rồi.
Những chiếc áo nịt là nỗi phiền muộn của cô từ lúc phải mặc vào trong buổi sáng cho tới khi được cởi ra trong buổi tối. Nhưng mọi cô gái đều phải mặc áo nịt khi đã ghim tóc lên và mặc những chiếc váy lót phủ xuống tới cổ giầy. Mẹ nhắc:
- Các con cần mặc áo nịt suốt đêm.
Mary làm theo lời Mẹ, nhưng Laura không chịu nổi nỗi bực bội do những gọng thép khiến cô khó hít thở sâu được. Cho nên trước khi lên giường cô luôn cởi hết áo nịt.
Mẹ cảnh cáo:
- Chỉ có trời mới biết nổi hình dạng con rồi sẽ ra sao. Khi Mẹ lấy chồng, Bố con có thể dùng gang tay để đo eo của Mẹ.
Laura đáp hơi có vẻ chọc ghẹo:
- Bây giờ Bố không thể làm thế nhưng giống như Bố thích Mẹ hơn.
Mẹ quở:
- Không được nói ngang, Laura.
Nhưng má Mẹ ửng đỏ và Mẹ không thể không mỉm cười. Lúc này Mẹ đã ghép khít dải viền trắng vào cổ áo Mary và ghim cho dải viền xõa xuống thật duyên dáng phủ trên mép cổ áo giống như một thác nước đang đổ xuống từ cổ áo.Tất cả đều đứng lùi lại ngắm nghía. Vạt váy phồng bằng len mịn nâu bóng hơi khép sát ở phía trước nhưng bung ra ở hai bên và phía sau đủ rộng để lồng vành váy. Vạt váy trước vừa chạm sàn nhà còn vạt sau hơi quét xuống một cách duyên dáng và xoắn lại khi Mary xoay người. Quanh gấu váy là một đường ren lớn xếp nếp.
Váy ngoài bằng vải len kẻ ô vuông nâu-xanh, buông thẳng ở phía trước choàng qua hai bên để lộ chiếc váy bên dưới và thả những mảnh lớn về phía sau phủ vừa tới đường viền quanh gấu váy.
Phía trên là chiếc eo mảnh mai thon thả của Mary trong thân áo bó sát mềm mại. Hàng nút nhỏ vừa vặn chạy thẳng tới suối ren trắng nhẹ nhàng phía dưới cằm Mary. Lớp len màu nâu phẳng mịn phủ từ vai xuống khuỷu tay rồi những ống tay áo loe ra. Một lớp vải sọc vuông gợn sóng cuốn quanh các ống tay áo mở rộng để lộ những mảnh ren xếp nếp màu trắng sát trên những bàn tay thon thả của Mary. Mary đẹp tuyệt trong chiếc áo rực rỡ đó. Tóc cô óng vàng hơn những sợi tơ vàng trên tấm vải kẻ sọc vuông. Mắt cô xanh hơn màu xanh thường ngày. Má cô ửng hồng và dáng dấp cô vô cùng đặc biệt.
Laura nói:
- Ô, Mary. Chị giống hệt như vừa bước ra từ một bức họa người mẫu thời trang. Không thể nào ở trong trường có một ai sánh ngang được với chị.
Mary rụt rè hỏi, má ửng hồng hơn nữa:
- Đúng là con có vẻ coi được chứ, Mẹ?
Đây là lần Mẹ không che dấu sự đắc ý. Mẹ nói:
- Con không chỉ có nét đặc biệt mà rất đẹp. Dù xuất hiện ở đâu con cũng sẽ thoải mái trước những con mắt ngưỡng mộ. Và, Mẹ cũng phải cảm ơn vì quần áo của con xứng hợp với mọi dịp.
Mọi người không ngắm cô lâu hơn. Bộ đồ len trong tiết trời nóng bức khiến cô gần ngất xỉu. Họ cất bộ đồ một cách cẩn thận. Cuối cùng việc may cắt đã xong và là một thành công lớn.
Lúc này chỉ còn phải làm vài việc lặt vặt. Mẹ may tiếp cho Mary một chiếc mũ nhung để mang trong mùa đông, đan thêm mấy cặp vớ dài còn Laura đang đan cho Mary một đôi bao tay bằng lụa nâu.
Laura nói:
- Con sẽ đan vào những lúc rảnh rỗi. Bây giờ không phải lo may vá nữa mà đã tới lúc cần giúp Bố phơi cỏ khô.
Cô thích làm việc cùng Bố và thích làm việc ở ngoài trời giữa nắng gió. Ngoài ra, còn một điều bí mật là cô hy vọng thoát khỏi những chiếc áo nịt khi cô lo phơi cỏ. Mẹ ưng thuận một cách miễn cưỡng:
- Mẹ nghĩ là con có thể giúp Bố đánh đống cỏ khô nhưng sẽ đánh đống ở thị trấn.
Laura kêu lên:
- Ôi, Mẹ, không phải vậy! Mình lại dời về thị trấn sao?
Mẹ nói nhỏ nhẹ:
- Cần điều chỉnh giọng nói của con, Laura. Điều hay nhất đối với một người phụ nữ là phải luôn giữ cho giọng nói dịu dàng, nhỏ nhẹ, khoan thai.
Laura thì thầm:
- Mình phải dọn về thị trấn không?
Mẹ nói:
- Bố Mẹ nghĩ rằng không nên mạo hiểm sống trong căn nhà này cho tới khi Bố tạo được một mái che đủ chống chọi với bão tuyết. Con đã biết là mình đâu có thể sống qua nổi mùa đông vừa rồi ở đây.
Laura biện bạch:
- Có lẽ mùa đông này không tệ lắm.
Mẹ nói dứt khoát:
- Mình không thể liều lĩnh được.
Laura hiểu là việc đã được quyết định. Cả nhà sẽ lại dời về sống trong thị trấn vào mùa đông tới và cô phải ráng sức lo cho việc đó.
Chiều hôm đó, khi bầy chim sáo nhởn nhơ bay lượn trong ánh hoàng hôn trên cánh đồng lúa mạch, Bố xách súng ra bắn. Bố không thích làm thế và cả nhà không ai muốn nghe tiếng súng, nhưng tất cả đều hiểu đây là việc phải làm. Bố cần bảo vệ hoa màu. Vào mùa đông đó, lũ ngựa cùng Ellen và mấy con bê có thể sống bằng cỏ khô nhưng lúa mạch với bắp là sản phẩm đổi thành tiền. Họ sẽ bán những thứ đó lấy tiền mặt để trang trải thuế má và mua than.
Sáng hôm sau, khi sương trên cỏ vừa tan, Bố đưa ngay máy gặt ra cắt lúa. Trong nhà, Mẹ bắt đầu may chiếc mũ nhung cho Mary và Laura bận rộn với việc làm đôi bao tay bằng lụa nâu. Lúc mười một giờ, Mẹ lên tiếng:
- Thôi, tới giờ lo bữa ăn trưa rồi. Laura, con ra ngoài coi có trái bắp nào đủ lớn để nấu chưa. Lúc này, bắp cao ngang Laura và nhìn thật mát mắt với những cánh lá chen chúc luôn xào xạc theo cây bắp đang lắc lư những chùm hoa rủ xuống tua tủa ở trên đầu. Khi Laura vào tới giữa luống bắp, một cơn lốc khổng lồ những con chim màu đen vụt bốc lên xoay tít trên đầu cô. Tiếng đập của cánh chim át hẳn tiếng lá khua. Đàn chim dày đặc tạo thành một bóng mây trôi nhanh trên những ngọn bắp rồi tất cả lại cùng đáp xuống.
Trái bắp chen chúc đầy khắp. Gần như cây bắp nào cũng có hai trái và nhiều cây có ba trái. Hoa bắp đã khô chỉ còn một ít phấn hoa vẫn đang bay và râu bắp không khác mái tóc dầy màu lá cây mọc ra từ trên đỉnh những vỏ bắp xanh biếc. Rải rác đây đó nhiều chùm râu bắp đang chuyển sang màu nâu và trái bắp căng đầy dưới lớp vỏ khi Laura khẽ nhấn mấy ngón tay lên. Chắc ăn hơn, trước khi bẻ một trái bắp, cô tách lớp vỏ ra để nhìn thấy rõ những hàng hạt bắp sữa ở phía trong.
Chim sáo tiếp tục bay lên xung quanh cô. Đột nhiên cô như chết sững. Lũ chim sáo đang ăn bắp!
Cô nhìn thấy rải rác nhiều đầu trái bắp trơ trụi. Vỏ bắp bị kéo tróc xuống và không còn hạt trên cùi bắp. Trong lúc cô đứng im, đám chim sáo đáp xuống khắp xung quanh. Những chiếc móng của chúng bám vào các trái bắp, những chiếc mỏ sắc xé toạc lớp vỏ bọc rồi mổ và nuốt thật nhanh những hạt bắp.
Lặng lẽ và thất vọng, Laura lao vào chúng. Cô cảm thấy tựa hồ như cô đang gào thét. Cô cầm mũ đập vào lũ chim. Chúng bốc lên như bão lốc vỗ cánh náo động rồi lại đáp xuống đám bắp ở trước mặt cô, sau lưng cô, xung quanh cô. Chúng lại bấu vào những trái bắp, xé toạc vỏ và đang nuốt trọn mùa bắp. Cô không thể làm gì để ngăn trở một đám chim đông như thế. Cô bẻ mấy trái bắp bỏ vào tạp dề và chạy về nhà. Tim cô đập dồn dập và tay chân run rẩy. Khi Mẹ hỏi có chuyện gì, cô không muốn trả lời. Cô nói:
- Chim sáo đang ở trong đồng bắp. Con có thể không nói cho Bố được không?
Mẹ nói:
- Sáo vẫn thường ăn một ít bắp, đâu có gì đáng lo. Con nên mang nước ra cho Bố. Ngoài đồng cỏ, Bố không bận tâm nhiều tới lũ sáo. Bố nói đã quét chúng khỏi đồng lúa mạch bằng cách bắn hạ cả trăm con. Bố nói:
- Dường như chúng không phá hư một chút bắp nào, nhưng cũng khó tránh chuyện đó.
Laura nói:
- Có nhiều chim sáo ở đó lắm. Bố, nếu không thu hoạch được mùa bắp thì... thì Mary có thể tới trường không?
Bố có vẻ kém phấn khởi:
- Con nghĩ là có chuyện tệ hại như thế hả?
Laura nói:
- Chúng ở đó đông lắm.
Bố liếc nhìn ánh nắng:
- Thôi, thêm một giờ nữa thì cũng chẳng làm đổi khác sự việc bao nhiêu. Bố sẽ ghé qua đó coi vào lúc trở về nhà ăn cơm trưa.
Buổi trưa Bố xách súng đi ra đồng bắp. Bố đi giữa các luống bắp và bắn vào đám mây sáo bốc lên. Mỗi phát súng của Bố đều gieo cái chết cho lũ chim nhưng đám mây đen đặc vẫn tiếp tục hạ xuống đồng bắp. Khi Bố bắn hết đạn, cơn lốc xoáy cánh chim dường như không mỏng hơn chút nào.
Chim sáo đã rời xa không còn một con trên đồng lúa mạch. Nhưng chúng đã ăn không còn một hạt trong các tụ lúa. Chỉ rơm là còn lại.
Mẹ đã nghĩ mấy mẹ con có thể ngăn chặn lũ chim tới đồng bắp. Tất cả đã cố làm. Ngay cả Grace cũng chạy ngược xuôi theo các luống bắp vừa khua chiếc mũ bé xíu vừa la hét. Bầy sáo chỉ bay lên xoay quanh họ rồi lại đáp xuống những trái bắp, xé vỏ và mổ hạt.
Bố nói:
- Cả nhà chỉ hành xác mình một cách vô ích thôi, Caroline. Anh sẽ ra thị trấn mua thêm đạn.
Bố đi khỏi rồi, Mẹ nói:
- Thử coi có phải mình không đuổi nổi lũ chim cho tới lúc Bố về không. Tất cả lại chạy ngược xuôi dưới ánh nắng nóng, loạng choạng trên lớp đất lởm chởm, khua tay la hét. Mồ hôi ướt đẫm từ mặt xuống lưng và lá bắp sắc cạnh cứa trên tay trên má. Cuống họng đau nhức vì la hét. Và, những chiếc cánh đảo bay lên rồi lại hạ xuống. Những chiếc móng chim luôn cào bấu vào các trái bắp và những chiếc mỏ nhọn luôn xé và mổ.
Cuối cùng, Mẹ ngưng lại, nói:
- Vô ích, các con!
Bố trở về với số đạn mua thêm và trọn chiều hôm đó bắn hạ lũ sáo. Chim nhiều tới mức mỗi viên đạn nhỏ đều trúng một con. Giống như Bố càng bắn, chim càng đông thêm tựa hồ hết thảy sáo đen trên toàn vùng đều đang hối hả kéo tới để dự phần vào bữa tiệc bắp. Thoạt đầu chỉ là nhữngcon sáo đen thường thấy. Tiếp đến là giống sáo đen đầu vàng lớn hơn rồi đến giống sáo đầu đỏ với một chấm nhỏtrên cánh. Chúng đến từng bầy hàng trăm con. Buổi sáng cả một vùng đen ngòm chim sáo bốc lên và đâm bổ xuống đồng bắp. Bố trở về vào sau giờ ăn sáng ôm đầy những con chim bị Bố bắn rớt. Bố nói:
- Anh chưa nghe ai nói ăn thịt chim sáo, nhưng có thể thịt chim sáo cũng ngon lắm vì chúng có vẻ béo như bơ. Mẹ nói:
- Nhổ long chúng đi, Laura! Mình sẽ chiên làm món ăn trưa. Chẳng có sự mất mát lớn nào mà không được bù lại bằng cái lợi nhỏ.
Laura nhổ lông chim và buổi trưa Mẹ hun nóng chảo chiên thả vào. Chúng được chiên bằng chính mỡ của chúng và trong bữa ăn cả nhà đều nhìn nhận rằng thịt chim sáo là mềm nhất, ngon nhất so với các món thịt đã có trên bàn ăn.
Sau bữa ăn trưa, Bố mang về thêm một ôm chim sáo nữa và một ôm bắp. Bố nói:
- Mình cũng phải hình dung là mùa bắp đi tiêu rồi. Chỗ bắp này nhỏ và quá non nhưng tốt hơn là nên ăn những gì mình có được trước khi lũ sáo cướp hết. Mẹ kêu lên:
- Không biết tại sao em lại không nghĩ đến chuyện này sớm hơn. Laura và Carrie mau ra bẻ tất cả những trái bắp nào tạm đủ già để phơi khô. Chắc chắn mình sẽ còn giữ được một ít để ăn trong mùa đông tới.
Laura hiểu vì sao Mẹ đã không nghĩ ra chuyện này sớm hơn và cô cũng rất rối trí. Vụ bắp đã mất trắng. Bố sẽ phải lôi số tiền dành dụm ra để đóng thuế và mua than. Sau đó sẽ phải xoay sở cách nào để gửi được Mary tới trường vào mùa thu này?
Lúc này sáo dày đặc tới mức cánh của chúng khua giữa các luống bắp chạm mạnh vào cánh tay Laura và va đập vào mũ của cô. Cô cảm thấy có những cú đánh của những vật sắc nhỏ giáng xuống đầu và Carrie hét lớn là chim đang mổ trên đầu cô. Hình như bầy chim cho rằng bắp là của chúng và chúng đang chiến đấu để giữ lại. Chúng bay sát ngay trước mặt Laura và Carrie vừa gắt gỏng chí chóe vừa mổ vào mũ của các cô.
Bắp không còn lại nhiều. Ngay cả những trái bắp non nhất hạt chưa lớn hơn một vết phồng trên da cũng bị xé vỏ và mổ sạch. Nhưng Laura và Carrie cũng đã gom đầy vạt áo tạp dề nhiều lần những trái bắp mới chỉ bị ăn một phần. Khi Laura đi tìm số chim sáo để nhổ lông cô không tìm thấy và Mẹ cũng không nói chúng ở đâu. Mẹ trả lời có vẻ bí mật:
- Chờ coi. Trong lúc chờ đợi, mình lo nấu chỗ bắp này và tách chúng ra khỏi cùi để hong khô.
Phải khéo tay mới tách được bắp ra khỏi cùi. Dao cần lạng đều dọc suốt hàng bắp ở mức vừa đủ sâu để lấy trọn hạt bắp nhưng không được quá sâu khiến sẽ cắt luôn cả phần túi mà từ đó hạt bắp mọc lên. Những hạt bắp văng ra với một lớp sữa đọng.
Mẹ tãi bắp trên tấm khăn bàn cũ đã giặt sạch rồi phủ lên bằng một tấm khăn khác để giữ không cho chim sáo, gà và ruồi đụng tới. Nắng sẽ hong khô bắp và trong mùa đông tới đem ngâm nước để nấu sẽ là một món ăn ngon.
Khi về ăn cơm trưa, Bố nhận xét:
- Đây là một ý kiến của người da đỏ. Caroline, dù em chưa nhìn nhận thì vẫn có điều để nói về người da đỏ .
Mẹ đáp:
- Nếu đúng thế thì anh đã nói nhiều lần rồi nên em khỏi cần nói nữa.
Mẹ ghét người da đỏ nhưng lúc này Mẹ đang có một bí mật nào đó. Laura đoán bí mật này phải dính líu tới việc mất biến những con sáo. Mẹ nói:
- Chải đầu và ngồi vào bàn ăn đi, Charles.
Mẹ mở cửa lò hấp và lấy ra chiếc chảo sữa bằng thiếc. Chiếc chảo đầy ắp một món gì đó phủ kín dưới một lớp vỏ bánh qui xậm mầu thật hấp dẫn. Mẹđặt ngay phía trước Bố và Bốnhìn đầy vẻ kinh ngạc:
- Bánh nhồi thịt gà.
Mẹ nói:
- Hãy hát một bài hát sáu xu...
Laura mở đầu ngay rồi tới Carrie, Mary và cả Grace cũng hòa theo: Một túi lúa mạch đầy Hai mươi bốn con sáo Bánh nhồi thịt hấp ngay! Bánh chín lò mở rộng Chim hót thật mê say Món ăn kia có xứng Đặt trước đức vua này?
Bố nói:
- Thôi, Bố sẽ chuyển hướng! Bố nhấn chiếc muỗng lớn vào trong lớp vỏ bánh và lật ngược một khoanh trên đĩa. Mặt dưới khoanh bánh đầy hơi nước và mịn như tơ. Bốtưới lên những muỗng nước thịt và đặt bên cạnh một nửa con sáo vàng ngậy và mềm tới mức thịt tróc ra khỏi xương. Bố chuyển chiếc đĩa thứ nhất ngang bàn tới phía trước Mẹ.
Mùi thơm của chiếc bánh nhồi thịt được mở ra khiến tất cả đều chảy nước miếng đến nỗi ai nấy đều nuốt xuống ừng ực trong lúc chờ được chia phần và ở dưới gầm bàn, con mèo con đứng gồng lên với cơn đói cồn cào thôi thúc bật thành những tiếng kêu meo meo lo lắng.
Mẹ nói:
- Chảo chứa mười hai con chim cả thảy. Vừa đủ cho mỗi người hai con nhưng sức Grace chỉ ăn nổi một con nên con thứ ba được dành cho anh, Charles.
Bố nói:
- Em đã nghĩ tới làm bánh nhồi thịt gà từ một năm trước khi có gà. - Bố ăn một miếng và nói tiếp. - Thứ này ăn đứt hẳn món bánh nhồi thịt gà.
Cả nhà đều đồng tình là món bánh nhồi thịt chim sáo ngon hơn bánh nhồi thịt gà. Ngoài ra còn có thêm khoai tây đầu mùa, đậu, dưa leo xắt mỏng, cà rốt do Mẹ tỉa luống và phô mai trắng. Và hôm đó lại không phải ngày chủ nhật. Khi nào còn chim sáo và vườn rau còn xanh thì hàng ngày đều có thể ăn như thế này.
Laura nghĩ: Mẹ có lý, bao giờ cũng có những điều cần phải cảm ơn. Tuy vậy, cô vẫn thấy nặng chĩu. Vụ bắp và lúa mạch không còn nữa. Cô không biết bằng cách nào Mary có thể được tới trường trong lúc này. Những chiếc áo mới tuyệt đẹp vậy là phải cất đi để chờ tới năm sau. Đây sẽ là một nỗi tuyệt vọng khủng khiếp của Mary. Bố ăn muỗng kem trộn đường màu hồng cuối cùng từ chén cà chua rồi uống trà.
Bữa ăn trưa chấm dứt. Bố đứng lên cầm lấy chiếc nón trên móc, nói với Mẹ:
- Mai là thứ bảy. Nếu em tính đi với anh ra thị trấn thì mình có thể chọn mua rương cho Mary.
Mary muốn nghẹn thở. Laura kêu lên:
- Mary sắp tới trường thực sao?
Bố ngạc nhiên, hỏi:
- Con có chuyện gì vậy, Laura?
Laura nói:
- Làm sao chị ấy đi được? Cả bắp lẫn lúa mạch đều không còn một hạt nào?
Bố nói:
- Bố không ngờ rằng con còn khờ như thế. Bố sẽ bán con bò tơ.
Mary kêu lên:
- Ô, không! Không thể bán con bò tơ!
Chỉ thêm một năm nữa con bò tơ sẽ thành bò cái. Lúc đó trong nhà sẽ có hai con bò cái. Như thế mọi người sẽ có sữa và bơ ăn quanh năm. Bây giờ nếu Bố bán con bò tơ thì họ phải chờ con bê nhỏ lớn lên trong hai năm nữa. Bố nói:
- Bán con bò sẽ đỡ nhiều lắm. Bố phải thu được tới mười lăm đô-la.
Mẹ nói:
- Đừng băn khoăn về chuyện đó, các con. Mình có khi phải cắt áo để ghép vải.
Mary than thở:
- Ôi, Bố, như thế thì Bố bị đẩy lui lại cả năm trời.
Bố nói:
- Đừng nghĩ ngợi gì, Mary. Đây là thời gian con sắp tới trường và lúc này mọi người đang nghĩ tới việc ra đi của con. Bầy sáo phá hoại không thể ngăn cản chúng ta được.
- Tập 1 - Chương 1 - Ngôi nhà nhỏ ở Big Woods
- Tập 1 - Chương 2 - Những ngày mùa đông và những đêm mùa đông
- Tập 1 - Chương 3 - Cây súng trường
- Tập 1 - Chương 4 - Lễ Giáng sinh
- Tập 1 - Chương 5 - Những ngày chủ nhật
- Tập 1 - Chương 6 - Hai con gấu lớn
- Tập 1 - Chương 7 - Tuyết đường
- Tập 1 - Chương 8 - Khiêu vũ tại nhà ông nội
- Tập 1 - Chương 9 - Tới thành phố
- Tập 1 - Chương 10 - Mùa hè
- Tập 1 - Chương 11 - Ngày mùa
- Tập 1 - Chương 12 - Cỗ máy kỳ diệu
- Tập 1 - Chương 13 - Con nai trong rừng
- Tập 2 - Chương 1 - Về miền tây
- Tập 2 - Chương 2 - Băng ngang dòng lũ
- Tập 2 - chương 3 - Dựng trại trên đồng cỏ
- Tập 2 - Chương 4 - Ngày thảo nguyên
- Tập 2 - Chương 5 - Ngôi nhà trên thảo nguyên
- Tập 2 - Chương 6 - Chuyển vào nhà
- Tập 2 - Chương 7 - Bầy sói
- Tập 2 - Chương 8 - Hai khuôn cửa dầy
- Tập 2 - Chương 9 - Ngọn lửa trong lò sưởi
- Tập 2 - Chương 10 - Một mái nhà và một nền đất
- Tập 2 - Chương 11 - Những người da đỏ trong ngôi nhà
- Tập 2 - Chương 12 - Nước ngọt để uống
- Tập 2 - Chương 13 - Những chiếc sừng dài Texas
- Tập 2 - Chương 14 - Trai da đỏ
- Tập 2 - Chương 15 - Sốt rét rừng
- Tập 2 - Chương 16 - Lửa trong ống khói
- Tập 2 - Chương 17 - Bố lên tỉnh
- Tập 2 - Chương 18 - Người da đỏ cao lớn
- Tập 2 - Chương 19 - Ông Edwards gặp ông già noel
- Tập 2 - Chương 20 - Tiếng hét trong đêm
- Tập 2 - Chương 21 - Hội liên hoan da đỏ
- Tập 2 - Chương 22 - Đám cháy trên đồng cỏ
- Tập 2 - Chương 23 - Tiếng thét xung trận của người da đỏ
- Tập 2 - Chương 24 - Những người da đỏ ra đi
- Tập 2 - Chương 25 - Những chiến binh
- Tập 2 - Chương 26 - Ra đi
- Tập 3 - Chương 1 - Những ngày tới trường
- Tập 3 - Chương 2 - Buổi tối mùa đông
- Tập 3 - Chương 3 - Đêm mùa đông
- Tập 3 - Chương 4 - Chuyện bất ngờ
- Tập 3 - Chương 5 - Kỷ niệm sinh nhật
- Tập 3 - Chương 6 - Chất đầy nhà chứa đá
- Tập 3 - Chương 7 - Đêm thứ bảy
- Tập 3 - Chương 8 - Ngày chủ nhật
- Tập 3 - Chương 9 - Dạy những con bê
- Tập 3 - Chương 10 - Vòng quay của năm
- Tập 3 - Chương 11 - Mùa xuân
- Tập 3 - Chương 12 - Người bán đồ thiếc
- Tập 3 - Chương 13 - Con chó lạ lùng
- Tập 3 - Chương 14 - Xén lông cừu
- Tập 3 - Chương 15 - Chống lạnh
- Tập 3 - Chương 16 - Ngày Quốc Khách
- Tập 3 - Chương 17 - Mùa hè
- Tập 3 - Chương 18 - Giữ nhà
- Tập 3 - Chương 19 - Vụ mùa sớm
- Tập 3 - Chương 20 - Vụ mùa muộn
- Tập 3 - Chương 21 - Hội chợ địa phương
- Tập 3 - Chương 22 - Mùa thu trong năm
- Tập 3 - Chương 23 - Người thợ sửa giầy
- Tập 3 - Chương 24 - Cỗ xe trượt nhỏ
- Tập 3 - Chương 25 - Đập búa
- Tập 3 - Chương 26 - Lễ Giáng sinh
- Tập 3 - Chương 27 - Kéo gỗ
- Tập 3 - Chương 28 - Chiếc ví của ông Thompson
- Tập 3 - Chương 29 - Cậu bé quê
- Tập 4 - Chương 1 - Khuôn cửa dưới đất
- Tập 4 - Chương 2 - Căn nhà hầm
- Tập 4 - Chương 3 - Cỏ ống và cỏ lưỡi bào
- Tập 4 - Chương 4 - Nước sâu
- Tập 4 - Chương 5 - Con vật lạ lùng
- Tập 4 - Chương 6 - Vòng hoa hồng
- Tập 4 - Chương 7 - Con bò đực trên mái nhà
- Tập 4 - Chương 8 - Đống rơm
- Tập 4 - Chương 9 - Thời tiết châu chấu
- Tập 4 - Chương 10 - Bầy bò trong cỏ khô
- Tập 4 - Chương 11 - Bỏ chạy
- Tập 4 - Chương 12 - Những con ngựa ngày Giáng sinh
- Tập 4 - Chương 13 - Giáng sinh vui vẻ
- Tập 4 - Chương 14 - Cơn lũ mùa xuân
- Tập 4 - Chương 15 - Cây cầu nhỏ
- Tập 4 - Chương 16 - Căn nhà kỳ diệu
- Tập 4 - Chương 17 - Chuyển vào nhà
- Tập 4 - Chương 18 - Con cua già và con đỉa
- Tập 4 - Chương 19 - Cái bẫy cá
- Tập 4 - Chương 20 - Trường học
- Tập 4 - Chương 21 - Nellie Oleson
- Tập 4 - Chương 22 - Buổi hội thành phố
- Tập 4 - Chương 23 - Buổi họp mặt đồng quê
- Tập 4 - Chương 24 - Đi nhà thờ
- Tập 4 - Chương 25 - Đám mây chói lọi
- Tập 4 - Chương 26 - Trứng châu chấu
- Tập 4 - Chương 27 - Mưa
- Tập 4 - Chương 28 - Lá thư
- Tập 4 - Chương 29 - Giờ đen tối nhất trước lúc bình minh
- Tập 4 - Chương 30 - Đi phố
- Tập 4 - Chương 31 - Bất ngờ
- Tập 4 - Chương 32 - Những con châu chấu đang bò
- Tập 4 - Chương 33 - Những vòng lửa
- Tập 4 - Chương 34 - Những dấu hiệu trên tấm bảng viết
- Tập 4 - Chương 35 - Giữ nhà
- Tập 4 - Chương 36 - Mùa đông trên thảo nguyên
- Tập 4 - Chương 37 - Cơn bão lê thê
- Tập 4 - Chương 38 - Ngày bày trò
- Tập 4 - Chương 39 - Ngày thứ ba
- Tập 4 - Chương 40 - Ngày thứ tư
- Tập 4 - Chương 41 - Chiều trước ngày Giáng sinh
- Tập 5 - Chương 1 - Người khách bất ngờ
- Tập 5 - Chương 2 - Lớn lên
- Tập 5 - Chương 3 - Trên xe lửa
- Tập 5 - Chương 6 - Những con ngựa ô
- Tập 5 - Chương 4 - Cuối đường sắt
- Tập 5 - Chương 5 - Trại đường sắt
- Tập 5 - Chương 7 - Đi vào miền tây
- Tập 5 - Chương 8 - Hồ nước bạc
- Tập 5 - Chương 9 - Những kẻ trộm ngựa
- Tập 5 - Chương 10 - Buổi chiều tuyệt vời
- Tập 5 - Chương 11 - Ngày phát lương
- Tập 5 - Chương 12 - Những đôi cánh trên hồ nước bạc
- Tập 5 - Chương 13 - Trại giải tán
- Tập 5 - Chương 14 - Ngôi nhà của nhân viên dịch lộ
- Tập 5 - Chương 15 - Người cuối cùng ra đi
- Tập 5 - Chương 16 - Những ngày mùa đông
- Tập 5 - Chương 17 - Những con sói trên hồ nước bạc
- Tập 5 - Chương 18 - Bố tìm được nông trại
- Tập 5 - Chương 19 - Buổi chiều trước Giáng sinh
- Tập 5 - Chương 20 - Đêm trước Giáng sinh
- Tập 5 - Chương 21 - Giáng sinh hạnh phúc
- Tập 5 - Chương 22 - Những ngày đông hạnh phúc
- Tập 5 - Chương 23 - Trên đường Pilgrim
- Tập 5 - Chương 24 - Đợt sóng mùa xuân
- Tập 5 - Chương 25 - Cuộc đánh cá của bố
- Tập 5 - Chương 26 - Cơn sốt xây cất
- Tập 5 - Chương 27 - Cuộc sống thị trấn
- Tập 5 - Chương 28 - Ngày dọn nhà
- Tập 5 - Chương 29 - Túp lều mong đợi
- Tập 5 - Chương 30 - Vùng hoa tím nở
- Tập 5 - Chương 31 - Những con muỗi
- Tập 5 - Chương 32 - Bóng chiều buông xuống
- Tập 6 - Chương 1 - Mùa đông thăm thẳm. Phơi cỏ khi nắng chiều
- Tập 6 - Chương 2 - Chuyến đi vào thị trấn
- Tập 6 - Chương 3 - Mùa thu
- Tập 6 - Chương 4 - Cơn bão tuyết tháng Mười
- Tập 6 - Chương 5 - Sau cơn bão
- Tập 6 - Chương 6 - Mùa thu muộn
- Tập 6 - Chương 7 - Lời cảnh báo của người da đỏ
- Tập 6 - Chương 8 - Sống trong thị trấn
- Tập 6 - Chương 9 - Cap Garland
- Tập 6 - Chương 10 - Cơn bão tuyết ba ngày
- Tập 6 - Chương 11 - Bố tới Volga
- Tập 6 - Chương 12 - Đơn độc
- Tập 6 - Chương 13 - Chúng ta sẽ qua cơn hoạn nạn
- Tập 6 - Chương 14 - Một ngày sáng đẹp
- Tập 6 - Chương 15 - Không có xe lửa
- Tập 6 - Chương 16 - Thời tiết tốt
- Tập 6 - Chương 17 - Lúa giống
- Tập 6 - Chương 18 - Giáng sinh vui vẻ
- Tập 6 - Chương 19 - Nơi nào có ý chí
- Tập 6 - Chương 20 - Sơn dương
- Tập 6 - Chương 21 - Mùa đông khắc nghiệt
- Tập 6 - Chương 22 - Lạnh lẽo và tối tăm
- Tập 6 - Chương 23 - Hạt giống trong bức vách
- Tập 6 - Chương 24 - Không đói thật sự
- Tập 6 - Chương 25 - Tự do và độc lập
- Tập 6 - Chương 26 - Thời gian thoi thóp
- Tập 6 - Chương 27 - Bữa ăn hàng ngày
- Tập 6 - Chương 28 - Trận bão tuyết bốn ngày
- Tập 6 - Chương 29 - Dặm đường cuối cùng
- Tập 6 - Chương 30 - Không thể đánh bại chúng ta (5)
- Tập 6 - Chương 30 - Không thể đánh bại chúng ta
- Tập 6 - Chương 31 - Chờ đợi xe lửa
- Tập 6 - Chương 32 - Thùng quà Giáng sinh
- Tập 6 - Chương 33 - Giáng sinh trong năm
- Tập 7 - Chương 1 - Chuyện bất ngờ
- Tập 7 - Chương 2 - Mùa xuân trên đất trại
- Tập 7 - Chương 3 - Con mèo cần thiết
- Tập 7 - Chương 4 - Những ngày hạnh phúc
- Tập 7 - Chương 5 - Làm việc trong thị trấn
- Tập 7 - Chương 6 - Tháng hoa hồng
- Tập 7 - Chương 7 - Chín đô-la
- Tập 7 - Chương 8 - Ngày bốn tháng bảy
- Tập 7 - Chương 9 - Những con chim sáo
- Tập 7 - Chương 10 - Mary tới trường
- Tập 7 - Chương 11 - Cô Wilder dạy học
- Tập 7 - Chương 12 - Mùa đông ấm cúng
- Tập 7 - Chương 13 - Những ngày đi học
- Tập 7 - Chương 14 - Đuổi khỏi trường
- Tập 7 - Chương 15 - Cuộc viếng thăm của ban giám hiệu
- Tập 7 - Chương 16 - Những tấm danh thiếp
- Tập 7 - Chương 17 - Họp mặt thân hữu
- Tập 7 - Chương 18 - Sinh hoạt văn hóa
- Tập 7 - Chương 19 - Vòng xoáy vui thú
- Tập 7 - Chương 20 - Bữa tiệc mừng sinh nhật
- Tập 7 - Chương 21 - Những ngày bất đồng
- Tập 7 - Chương 22 - Điều bất ngờ trong tháng Tư
- Tập 7 - Chương 23 - Khóa học lại bắt đầu
- Tập 7 - Chương 24 - Triển lãm học đường
- Tập 7 - Chương 25 - Bất ngờ trong tháng Chạp