Chương VIII
Dưới chân núi, sóng biển vỗ bì bõm vào một đám đá mọc lởm chởm. Gió hanh từ bên Thổ Nhĩ Kỳ xa xôi thổi đến mơn vào mặt. Cảng này, có tường chắn sóng bằng bê-tông cốt sắt ngăn với biển cả, chạy khoằm vào đất liền theo hình vòng cung gãy góc. Đèo cao của rặng núi tràn lên mặt biển. Và những nếp nhà quét vôi trắng của ngoại ô thành phố này, mọc trèo lên lưng đèo thoai thoải.
Khu vườn tàn tạ của ngoại ô yên ả không một tiếng động. Cỏ mọc lấp lối đi lâu ngày không dọn bỏ hoang. Gió thu dứt lá những cây phong vàng úa lả tả rơi xuống dần dần phủ lên lối đi ấy.
Một ông già Ba Tư đánh xe ngựa đưa Pa-ven từ trong phố ra đấy. Khi đỗ cho người khách lạ lùng này xuống xe, ông lão xà-ích không nhịn được nói ra miệng điều ông nghĩ bụng:
- Tại sao ông lại đến đây, hở ông? Ở đây chẳng có gái đẹp, chẳng có rạp hát. Chỉ có độc giống sói lang đi rình mò ...Ông đến đây làm gì? Tôi không hiểu sao ông lại đến đây. Thôi, quay về đi, ông đồng chí ạ.
Pa-ven trả tiền, và ông lão xà-ích lại đánh xe đi.
Khu vườn vắng tanh, vắng ngắt. Pa-ven tìm thấy một tấm ghế dài kê trên mỏm đá trông thẳng ra biển. Anh ngồi xuống, ngửa mặt đón ánh nắng lúc bấy giờ đã tàn rồi.
Anh đến đây, đến chốn tịch mịch này, để suy nghĩ xem nên tổ chức đời sống của mình ra sao và dùng đời mình làm việc gì bây giờ. Đây là lúc kiểm điểm lại cuộc đời và phải quyết định mọi bề.
Từ lúc anh trở lại, những mâu thuẫn trong gia đình Quýt-xam trở nên sâu sắc đến cực độ. Khi biết tin anh đến thì lão già đùng đùng nổi trận lôi đình, ầm ĩ cửa nhà lẽ tất nhiên, có sự phản kháng trong gia đình này chống lại lão già là do Pa-ven lãnh đạo. Lão già đột nhiên bị hai con gái và vợ cưỡng lại một cách quyết liệt, và ngay hôm đầu tiên Pa-ven đến nhà, gia đình này liền chia làm hai phe đối địch, thù ghét nhau. Cửa vào buồng ông bà già đã đem chắn lại; một phòng nhỏ của nhà ngang thì cho Pa-ven thuê. Pa-ven đưa tiền nhà trước cho lão già và chẳng bao lâu lão thậm chí cũng có vẻ yên lòng, vì các con gái rời lão ra như thế, chẳng có đòi lão cung cấp cho đồng nào để sống.
Để cho người ngoài khỏi nói, bà cụ An-bi-na vẫn ở lại bên nhà lão già, chồng bà. Lão ta không bước chân sang bên bọn trẻ bao giờ, không muốn trông thấy mặt cái anh chàng mà lão chí ghét. Ngược lại, ra đến sân thì lão thở hồng hộc như cái đầu tàu xe lửa để tỏ ra rằng lão là chủ cái nhà này.
Trước khi vào làm ở hợp tác xã, lão có hai nghề: nghề thợ khâu giày và nghề thợ mộc. Đến nay, lúc rỗi rãi, lão cũng làm thêm hai nghề ấy kiếm ra tiền; chỗ làm của lão trước đặt ở nhà dưới, sau lão vác bàn thợ đến làm ngay bên cửa sổ buồng Pa-ven để chọc tức anh chơi. Mỗi lần đóng đinh, lão ra tay đập búa chan chát, như điên, như giận, và lấy thế làm thích thú lắm. Lão hiểu lão làm thế thì Pa-ven có ngồi đọc sách cũng khổ với lão.
Lão rối rít lên trong chòm râu.
- Rồi biết tay ông, ông sẽ tống cổ mày đi cho mà xem.
*
Xa xa, mãi tít gần chân trời có con tàu đi qua, nhả làn khói đặc như một thoáng mây đen. Một đàn chim hải âu vừa bay vừa kêu, chúc đầu xuống mặt biển.
Pa-ven, tay ôm đầu, triền miên suy nghĩ. Chuỗi hình ảnh của đời anh, từ tấm bé đến bây giờ diễu qua trước mặt. Hai mươi bốn năm qua anh có sống trọn hay chăng cái đạo làm người? Như một vị quan tòa công minh, anh kiểm điểm lại trong trí nhớ cuộc đời mình từng năm một. Đời anh sống cũng không đến nỗi hỏng lắm, anh nhận thấy như thế và thâm tâm lấy làm hài lòng với mình. Đành rằng anh cũng sai lầm không phải ít, vì ngu xuẩn, vì bồng bột, nhưng sai lầm nhất là vì anh không hiểu biết. Song về căn bản không đến nỗi nào. Anh đã không bỏ trôi qua những ngày nồng cháy nhất, anh đã chọn ngay chỗ đứng của anh trong cuộc chiến đấu thép lửa để giành chính quyền và trên lá cờ đỏ chói của cách mạng cũng có vài giọt máu của anh nhuộm thắm.
Còn chút sức lực nào thì anh vẫn chưa chịu rời đội ngũ. Giờ đây, bị thương nặng, anh không đấu tranh ở tiền tuyến được. Anh chỉ còn có cách lùi về những bệnh viện hậu phương. Anh nhớ lại cái ngày Hồng quân ào ào như sóng cuộn tiến quân vào gần thành Vác-xô-vi. Quân đang tiến thì đạn thù bắn trúng một chiến sĩ. Chiến sĩ ngã lăn ra đất, nằm dưới chân ngựa. Anh em đồng đội hối hả băng bó lại, rồi trao chiến sĩ cho quân y và xông tiếp lên, mải truy kích quân thù. Mất một chiến sĩ, đơn vị không vì thế mà ngừng xông lên đuổi địch. Trong cuộc đấu tranh vì sự nghiệp chung cao cả, thường như thế đấy, mà phải như thế đấy. Đành rằng có những trường hợp đặc biệt. Như anh đã từng trông thấy những chiến sĩ bắn súng máy cụt chân, ngồi trên xe ngựa ta-san-ca. Đấy là những con người làm quân thù khiếp sợ: súng máy của họ vẫn gieo chết chóc và tàn phá vào hàng ngũ địch. Họ bắn rất vững, mắt nhắm rất trúng, khiến cho cả trung đoàn lấy làm tự hào. Nhưng, những con người như vậy, hiếm lắm.
Con người anh phải làm gì bây giờ, sau cuộc thất trận này, khi anh chẳng còn chút hy vọng gì trở về chỗ anh trong đội ngũ. Anh đã làm cho bác sĩ Ba- gia-nô-va chẳng có lần đã phải nói thật với anh là trong tươi lai, anh phải đề phòng mọi sự bất thần ghê khiếp hơn nữa xảy ra đấy ư? Làm gì bây giờ? Câu hỏi đề ra không cách giải quyết này hiện ra trước mắt anh như một vực thẳm đen ngòm ghê sợ.
Khi đã mất thứ quý báu nhất là khả năng chiến đấu thì còn sống làm gì nữa? Ngày hôm nay và ngày mai đây đầy u ám, làm thế nào để chứng minh là đời mình còn đáng sống? Lấy gì lấp được nỗi trống trải của cuộc đời? Hay đành là chỉ biết ăn, biết uống và biết thở hít khí trời mà thôi? Chỉ còn cách khoanh tay trố mắt đứng nhìn các đồng chí của mình chiến đấu và tiến lên hay sao? Như thế để rồi sống báo cô tập thể ư? Rồi đến phải huỷ quách tấm thân tàn phế phản phúc này đi thôi? Một viên đạn vào giữa tim và thế là xong, đời hết vướng! Đã biết sống phải đạo làm người thì cũng cần phải biết chết đi vào đúng lúc nên chết. Ai dám kết tội người chiến sĩ không muốn kéo dài cơn hấp hối của mình?
Bàn tay anh sờ vào túi, nắn khẩu Bơ-rao-ninh dèm dẹp; ngón tay anh, theo thói quen, nắm lấy báng súng. Anh từ từ rút khẩu súng ngắn ra.
- Có ai ngờ mi lại sống đến một ngày tận số như thế này?
Nòng súng nhìn thẳng vào mắt anh khinh bỉ. Pa- ven đặt súng lên đầu gối và thốt ra một câu chửi giận dữ.
- Thế chỉ là anh hùng rơm đây thôi mi ạ! Tự sát như thế, một thằng khốn nạn bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu cũng làm được. Đấy là lối thoát dễ nhất mà cũng là hèn nhất. Sống có khó khăn thì làm một phát cho xong đời. Nhưng mi đã thử chiến thắng cuộc đời hóc hiểm ấy chưa? Mi đã làm hết cách để dứt ra khỏi vòng đai thép đang chịt lấy cổ mi chưa? Mi quên rồi sao, trước thành Nô-vô-gơ-rát - Vô-lưn-ski, mi và đồng đội của mi đã từng tung mười bảy đợt xung phong một ngày và đã biết chống lại tất cả để chiếm kỳ được lấy thành? Thôi hãy cất súng đi và đừng có hở chuyện này với ai. Hãy biết sống cả những khi cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa. Hãy làm cho đời mi còn có ích.
Anh đứng dậy và đi theo con đường cái. Một đồng bào ở núi cho anh lên ngồi nhờ xe ngựa và đáp về phố. Về đến phố, anh xuống một ngã tư mua tờ báo tỉnh. Báo đăng tin có họp toàn thể Đảng bộ thành tối nay ở câu lạc bộ Đê-mi-an Bét-đơ-ni.
Pa-ven đi họp đến khuya mới về. Trong buổi họp ấy anh đã lên nói chuyện và nào có hay đấy là lần nói cuối cùng của anh trước một hội nghị lớn.
Thai-a không ngủ được. Pa-ven đi mãi không về làm cô lo ngại. Có việc gì xảy ra với anh ấy? Anh Pa- ven ở đâu bây giờ? Hôm ấy, Thai-a thấy trong mắt nhìn của Pa-ven, trước kia anh nhanh nhẹn bao nhiêu, giờ có một cái gì lạnh lùng và khắc khổ. Pa-ven ít nói đến anh, song Thai-a đoán là anh đang trải qua một thử thách ghê gớm.
Lúc có tiếng cổng con ngoài vườn đóng sập, lại thì bên phòng mẹ, đồng hồ vừa buông hai tiếng. Thai- a khoác áo ngoài lên vai, chạy ra mở cửa. Chị Li-ô- la ngủ ở buồng, nói mê lẩm bẩm. Thai-a thấy Pa-ven đã về thì mừng quá; khi Pa-ven bước vào nhà, Thai- a nói thầm:
- Thế mà em cứ lo cho anh mãi.
- Anh còn sống thì không có việc gì mà phải lo cho anh đâu, em ạ, Li-ô-la ngủ rồi à, hở em? Em biết không, anh chẳng muốn ngủ tí nào. Hôm nay anh muốn nói với em. Thôi, ta sang buồng ngủ đi em, kẻo lại làm thức giấc chị Li-ô-la mất. - Pa-ven nói, giọng cũng thì thào.
Thai-a lưỡng lự. Như thế là thế nào? Đêm hôm khuya khoắt nói chuyện với anh ấy ư? Nhỡ mẹ biết thì sao? Nhưng nói thế nào để anh Pa-ven hiểu điều ấy nhỉ? Không nên, anh ấy giận mất. Mà anh ấy định nói chuyện gì thế nhỉ?
Nghĩ thế, Thai-a vẫn đi về phòng.
Khi hai người đã ngồi trong phòng tối, mặt đối mặt, gần sát nhau đến nỗi Thai-a nghe rõ hơi thở của anh, thì Pa-ven bắt đầu nói, giọng khàn khàn:
- Chuyện thế này, Thai-a ạ. Chuyện đời xoay ra đến chỗ anh cũng lấy làm lạ quá. Những ngày gần đây anh thấy hết sức khó chịu trong người. Có một điều anh cứ luẩn quẩn nghĩ mãi không biết nên thế nào: anh làm thế nào mà tiếp tục sống được bây giờ! Anh chưa bao giờ gặp cơn đen vận bĩ như thế. Nhưng hôm nay, anh đã họp "bộ chính trị" trong đầu anh và anh đã quyết nghị một điều rất là quan trọng. Em đừng lấy làm lạ, anh nói em nghe đây.
Anh kể cho Thai-a nghe tất cả những điều anh cảm thấy trong những tháng gần đây và một phần lớn những điều anh đã suy nghĩ ngoài khu vườn ngoại ô.
- Hiện tình thì như thế này. Anh nói ngay vào điểm chính. Câu chuyện ngang trái trong gia đình em hiện nay chỉ mới là bước đầu thôi. Ta phải bỏ đi, đến nơi không khí tươi lành, tránh được càng xa càng hay cái hang đen tối này. Ta phải làm lại cuộc đời. Đời của riêng em cũng như đời của anh lúc này đều đang bi cả. Anh định đốt lửa lên sưởi nóng cuộc đời hai đứa chúng ta. Em hiểu như thế nghĩa là như thế nào không? Anh hỏi em làm vợ của anh thì em có đồng ý không, em?
Thai-a nghe Pa-ven nói từ đầu đến giờ, trong lòng hết sức xúc động. Nghe đến câu sau cùng thì Thai- a giật mình sửng sốt.
- Anh không bảo em phải trả lời anh ngay bây giờ đâu Thai-a ạ. Em nghĩ cho kỹ. Em có lẽ không hiểu tại sao anh có thể nói với em điều đó mà không ướm ý em trước, không tán tỉnh em,v.v... Những trò ấy đều chẳng cần. Em bé ơi, anh đưa tay cho em cầm nhé, tay anh đây, em này. Nếu em tin anh thì em sẽ không bao giờ phải lo là bị lừa dối đâu. Ở anh, có nhiều điều mà em cần đến, và ngược lại, anh cũng thấy ở em như thế. Anh quyết định như thế này nhớ: chúng mình ước với nhau, cho đến ngày em lớn, em trưởng thành nên người - anh sẽ giúp em tiến bộ, nếu anh không giúp thế thì con người anh chẳng đáng một đồng kẽm nhỏ giữa chợ phiên đâu. Cho đến ngày ấy ta không được bội ước với nhau. Khi nào em lớn rồi thì tha hồ tùy em quyết định. Biết trước thế nào được? Có thể lúc bấy giờ thì anh đã hóa ra thân tàn ma dại. Nếu như gặp cảnh ngộ ấy thì em nên nhớ rằng, anh chẳng nỡ cột đời em vào đời anh đâu.
Anh im một lát, rồi lại âu yếm và nồng nàn:
- Ngay giờ đây, anh mong em hãy nhận ở anh tình bạn thân và lòng yêu thương em.
Anh không buông những ngón tay của Thai-a mà anh vẫn giữ trong tay anh, lòng bình tĩnh dường như là Thai-a đã ưng ý rồi.
- Anh có giữa đường bỏ em không?
- Không thể bằng vào lời nói miệng được. Thai- a. Em chỉ cần hiểu rằng: Những con người như anh không có bội bạc đâu. Quý hồ người ta đừng có bội bạc với anh.
Anh nói hết câu mà lòng chua xót.
Thai-a đáp lại:
- Hôm nay, em chưa trả lời anh được: tất cả chuyện này đối với em thật đột ngột quá.
Pa-ven đứng dậy:
- Thôi, em đi ngủ đi. Trời sắp sáng rồi.
Anh về phòng riêng, không cởi quần áo, cứ thế mà lăn ra giường. Đầu vừa áp gối đã ngủ say.
Trong phòng Pa-ven, ở mặt bàn, gần cửa sổ, có những chồng sách lấy ở thư viện Đảng về, một chồng báo và nhiều sổ tay viết chi chít. Một chiếc giường, hai cái ghế và trên cánh cửa thông sang buồng Thai- a treo một tấm bản đồ Trung Hoa, khổ rất rộng, trên lấm chấm những lá cờ nhỏ tí, đen và đỏ. Pa-ven đến Đảng ủy điều đình được với văn phòng gửi cho anh sách văn nghệ. Ngoài ra, các đồng chí còn hứa chỉ thị cho đồng chí phụ trách thư viện lớn nhất của cảng liên lạc với anh, làm "người đỡ đầu" về văn hóa cho anh. Chẳng bao lâu, thư viện cảng bắt đầu gửi đến cho anh từng bó sách nguyên. Li-ô-la lấy làm lạ, thấy hôm nào Pa-ven cũng miệt mài đọc sách và ghi sổ tay trong suốt ngày, từ sáng sớm cho đến chiều tối, chỉ nghỉ một chốc lát ăn cơm sáng và trưa, tối đến thì chị em Li-ô-la lại sang buồng Pa-ven ngồi chơi. Pa-ven kể lại cho chị em Li-ô-la những điều mình đọc được ban ngày.
Thường quá nửa đêm, lão già Quýt-xam đi ra sân, lần nào cũng thấy kẽ cửa sổ buồng anh chàng ở thuê đáng ghét có vệt đèn sáng. Lão rón rén năm đầu ngón chân bước lại gần nhìn qua kẽ cửa sổ, thấy cái đầu kia cứ cúi xuống bàn.
"Mọi người thì ngủ, còn nó thì cứ chong đèn suốt đêm. Nó thức canh nhà, làm như nó là chủ ở đây. Mấy con bé nghe nó đã giở quẻ rồi". Lão già nghĩ bụng thế, lấy làm bực tức và bỏ đi.
Tám năm nay, lần đầu tiên Pa-ven mới có dịp được thư thả thời giờ và không mắc một công việc gì hết. Anh đọc một cách say sưa, thèm khát như một cậu thiếu niên chưa bước vào đời. Ngày làm việc mười tám tiếng. Cứ cái đà làm việc như thế thì ảnh hưởng đến sức khỏe của anh như thế nào, nếu một hôm, Thai-a không buột miệng nói ra những lời này:
- Em đã kê dịch cái tủ chặn cửa buồng em ra rồi. Anh có muốn nói chuyện với em thì mở cửa sang thẳng bên em, không cần qua phòng chị Li-ô-la nữa.
Pa-ven đỏ ửng mặt. Thai-a mỉm cười, vui sướng: thế là đã hẹn ước với nhau.
Lão già đêm đêm không thấy ánh sáng lọt qua khe cửa sổ ở góc nhà nữa. Và bà cụ An-bi-na thì nhận ra đôi mắt của Thai-a có long lanh một niềm vui không giấu hết được. Quanh cặp mắt ánh rực lửa lòng nồng cháy, mờ mờ có quẳng thâm vì những đêm không ngủ. Trong căn nhà nhỏ lại thường văng vẳng tiếng đàn ghi-ta và tiếng hát của Thai-a.
Thai-a lòng xuân đã động, cảm thấy đau đớn vì tình yêu hình như có chiều lén lút vụng trộm. Nghe tiếng động nhỏ cũng giật mình, lúc nào cũng ngỡ là có tiếng chân bà mẹ. Thai-a rất khổ tâm mỗi lần nghĩ đến: nếu nhỡ ai hỏi tại sao đêm lại đóng cửa buồng mình, cài then kỹ thế thì sẽ trả lời thế nào? Pa-ven hiểu nỗi lòng của Thai-a, lựa lời âu yếm, làm người yêu yên lòng.
- Em làm sao mà sợ kia chứ? Anh với em hoàn toàn làm chủ ở đây. Em cứ ngủ yên. Không ai bước chân được vào đời tư của chúng mình cả.
Thai-a áp má vào ngực anh, và vững lòng hơn, ôm ghì lấy người yêu mà ngủ. Anh để tai nghe Thai-a thở một lúc lâu, nằm yên không động, để cho Thai- a được ngon giấc. Anh thấy lòng thương quá, mến quá người con gái đã gửi gắm tất cả đời mình vào anh rồi.
Li-ô-la là người đầu tiên hiểu duyên cớ vì đâu cặp mắt Thai-a bừng sáng. Từ hôm ấy, chị em đối với nhau có chiều hướng xa cách. Bà mẹ rồi cũng biết, hay nói đúng hơn, bà cũng đoán ra. Bà để ý đề phòng. Bà cụ có ngờ đâu Pa-ven lại thế. Một hôm, bà cụ nói với Li-ô-la:
- Con bé Thai-a không xứng đôi được với cậu ta đâu chẳng biết rồi sẽ ra sao?
Bà thấy lo. Nhưng không lần nào dám hỏi thẳng Pa-ven cả.
Bọn thanh niên bắt đầu lui tới phòng Pa-ven. Đôi khi anh em ngồi đông chật gian phòng nhỏ tí. Lão già nghe cứ ồn ồn như đàn ong vỡ tổ. Nhiều lần, cánh trẻ lại hát đồng thanh:
"Biển của ta quang vắng
Ngày đêm có tiếng sóng gầm"
và bài hát mà Pa-ven thích nhất:
"Thế gian bao la này tràn đầy nước mắt".
Đấy là anh chị em cán bộ Đảng đến họp Câu lạc bộ công nhân. Đảng ủy địa phương từ khi nhận được thư của Pa-ven đòi được làm công tác tuyên truyền đã giao cho anh phụ trách câu lạc bộ đó. Ngày tháng của Pa-ven cứ như thế mà trôi qua.
Thế là anh đã lại hai tay giữ vững được lái con thuyền và sau đôi lúc ngả nghiêng, anh đã hướng đời anh vào đích mới. Anh mơ ước lấy việc nghiên cứu học hỏi và công tác văn học để trở về chỗ đứng của anh trong đội ngũ.
Nhưng cuộc đời cừ dồn dập hết trở lực này đến trở lực này khác. Anh thấy trở lực hiện ra mà lo: trở lực sẽ ngăn trở anh đến độ nào trên đường tiến tới đích của mình?
Bỗng nhiên Gioóc-giơ, anh chàng sinh viên thi trượt vào đại học từ Mát-xcơ-va dẫn xác về với con vợ. Nó xuống ở nhà bố vợ làm luật sư, rồi cứ từ bên ấy mà về bòn tiền của bà mẹ.
Gioóc-giơ về làm mọi quan hệ trong gia đình càng rắc rối thêm. Nó chẳng do dự, vào phe ngay với bố, rồi thông đồng với nhà vợ, vốn sẵn có tư tưởng bài Xô-viết bắt đầu phá đám, tìm cách đuổi bằng được Pa-ven đi, bắt Thai-a phải lìa anh.
Mười lăm hôm sau, khi Gioóc-giơ về đến nhà, thì Li-ô-la kiếm được việc làm ở một quận bên cạnh. Chị đem mẹ già và con thơ ở với nhau bên ấy. Còn Pa- ven và Thai-a cũng đem nhau đi đến một thành phố xa ở gần biển.
A-rơ-chom ít khi nhận được thư Pa ven. Nhưng mỗi lần anh thấy trên mặt bàn giấy của anh ở Xô- viết thành phố có chiếc phong bì màu xám, đề chữ viết gãy góc quen thuộc, thì anh lật lật trang giấy, lòng không giữ nổi bình tĩnh như thường nữa. Lần này cũng thế, tay mở phong bì, anh nghĩ thầm trong bụng, với nhiều cảm động âu yếm mà anh cố không để lộ ra mặt: "Pa-vơ-lu-sa, Pa-vơ-lu-sa ơi! Giá lúc này em ở gần anh, thì thằng bé em của anh sẽ giúp ý kiến cho anh, tốt biết mấy".
"Anh A- rơ-chom !
Em muốn kể cho anh nghe cảnh ngộ của em bây giờ. Những thư thế này chỉ có gửi cho anh, em mới viết thôi. Anh biết tính em và sẽ hiểu rõ từng chữ em viết.
Trên mật trận đấu tranh giành lại sức khỏe của em, cuộc đời vẫn bi lắm, anh ạ. Chưa khỏi chứng này đã sinh ra tật nọ. Em vừa mới khỏi trận này đã lại bị giáng một trận khác bi đát hơn. Mà ghê sợ nhất là em không sao gắng gượng được nữa. Tay trái em liệt, em đã khổ lắm, giở lại thêm hai chân nó phản em. Và giờ em chỉ có thể hơi nhích được người đi (nhích trong bốn bức tường phòng em thôi) em khó nhọc lắm mới lê được từ giường em nằm ra bàn viết. Thế chưa phải là hết tội đâu, em chắc thế. Mai kia của nợ còn sinh ra thế nào nữa em chưa biết được.
Em ru rú ở nhà không đi đâu cả, chỉ ngày ngày nhìn qua cửa sổ trông ra được một góc biển. Có thể nào có một tấn kịch thảm hơn là bi kịch của một người như em, thân thể thì bại liệt không sao sai khiến được nữa mà trái tim người bôn-sê-vich ở em thì cứ lôi cuốn em không thể nào cưỡng lại được, lôi cuốn về với công tác, về với anh em, về với đội quân chiến đấu đang tiến trên khắp mặt trận, đang xung phong tiến công như một dòng thác thép?
Em vẫn còn tin em sẽ trở về đứng trong đội ngũ, tin mũi súng của em sẽ xuất hiện trong hàng trận xung phong. Em không thể nào không tin như thế, em không có quyền không tin như thế. Mười năm giáo dục của Đảng và Đoàn đã rèn cho em nghệ thuật chống chọi với cuộc đời, và lời của lãnh tụ cũng đúng cả vào trường hợp của em nữa: "Không có thành trì nào mà người bôn-sê-vích không đánh chiếm được".
Đời em bây giờ là học tập, là đọc sách, đọc sách nhiều và đọc sách nữa. Em đã học được khá rồi, anh A-rơ-chom ạ. Em đã đọc kỹ được hết các sách văn học cổ điển của ta. Em đã học xong năm thứ nhất của Trường đại học cộng sản hàm thụ. Tối tối em lãnh đạo một nhóm nghiên cứu gồm các đồng chí đảng viên trẻ. Chính qua đám đồng chí trẻ ấy mà em liên hệ được với công tác thực tế của tổ chức. Rồi đời em còn có Thai-a nữa. Thai-a tiến bộ trong học tập, tiến tới trong công tác, và sau hết là chúng em yêu nhau, người bạn đời bé bỏng của em chiều em thắm thiết. Chúng em sống hợp nhau lắm. Kinh tế gia đình em cũng giản dị thôi: chúng em có 32 rúp trợ cấp của em và tiền lương tháng của Thai-a, Thai-a đi vào Đảng cũng theo con đường như em. Thai-a cũng đi làm chân dọn dẹp bếp nước và bây giờ làm nghề rửa bát trong một quán cơm (nơi em không có nhà máy nào).
Mấy hôm gần đây, Thai-a khoe với em tấm giấy chứng nhận đầu tiên của mình, thẻ hội viên chi hội phụ nữ. Đối với Thai-a, chứng minh thư không phải là chỉ một mẩu bìa. Em để ý xem ở Thai-a đang thoát thai ra một con người mới. Em cố giúp cho Thai-a tiến. Rồi sẽ có ngày nhà máy lớn với anh chị em thợ sẽ làm cho Thai-a thành hẳn một con người mới. Chúng em còn ở đây thì Thai-a vẫn còn phải đi theo con đường duy nhất có thể đó.
Bà mẹ Thai-a hai lần đến tìm. Bà mẹ, vì thương con, đã vô tình tìm cách kéo Thai-a tụt lại, lôi về với cuộc đời nhỏ nhen, với những suy tính cá nhân bần tiện. Em đã cố cắt nghĩa cho bà cụ An-bi-na hiểu, để bà ta đừng đem bóng tối của đời bà ta che tối con đường Thai-a đã chọn. Nhưng nói mãi cũng vô ích. Em cảm thấy thế nào cũng có ngày bà ta ngáng trở con đường Thai-a tiến đến một cuộc đời mới. Và phải đấu tranh với bà ta, không thể nào tránh khỏi được.
Em bắt tay anh.
Em Pa-ven của anh".
Nhà an dưỡng số5 Ở phố Sta-rai-a Ma-xét-sta. Một toà nhà hai tầng xây bằng đá, trên miếng đất bằng, đẽo vào sườn núi. Chung quanh là rừng; con đường chữ chi chạy xuống dốc. Cửa sổ các buồng đều mở, gió hiu hiu thổi tạt vào mùi nước có chất diêm sinh của những con suối dưới chân núi bốc lên. Pa-ven ở một mình trong buồng. Mai sẽ có nhiều đồng chí khác đến và anh sẽ có bạn láng giềng. Ngoài kia có tiếng chân đi và.giọng ai quen thuộc. Có tiếng nhiều người nói chuyện với nhau, nhưng cái giọng trầm và sang sảng kia, anh đã nghe thấy ở đâu ấy nhỉ? Anh bắt trí nhớ làm việc căng thẳng và moi trong óc ra một cái tên chôn sâu trong ký ức chứ không phải là quên mất: "Lê-đê-nhếp In-nô-ken-ti Páp-vơ-lít-sơ. Chắc là đồng chí ấy thôi". Pa-ven không nghi ngờ gì nữa. Anh gọi to lên. Một phút sau, Lê-đê-nhếp đã ngồi ở đầu giường anh và mừng rỡ lắc mãi tay anh.
- A chú bé, còn sống cơ à? Có chuyện gì vui kể cho lão nghe đi chú? Sao chú có vẻ muốn ốm thật sự nhỉ? Lão không đồng ý chú như thế đâu nhớ? Chú hãy theo gương lão. Các thầy thuốc cũng định cho lão ra rìa đấy. Nhưng lão vững lắm, cứ nhất định không nghe làm họ tức điên lên - Và cụ già Lê-đê-nhếp cười rất hồn nhiên.
Pa-ven nhận thấy trong nụ cười có ẩn chút lòng thương hại và lo buồn.
Hai người nói chuyện với nhau suốt hai tiếng đồng hồ. Cụ già Lê-đê-nhếp kể tin tức Mát-xcơ-va. Nhờ ông cụ, Pa-ven mới biết được hai nghị quyết trọng yếu nhất của Đảng về tập thể hóa nông nghiệp và tổ chức lại nông thôn. Pa-ven nghe thèm khát, uống từng lời một.
- Thế mà lão cứ tưởng chú đang hoạt động ở đâu dưới U-cơ-ren nhà chú cơ mà. Bực nhỉ. Nhưng, không việc gì mà buồn, cảnh lão còn bi hơn. Lão đã tưởng nằm liệt rồi cơ đấy. Bây giờ, chú xem, lão cố cưỡng lại. Không thể nào đang lúc này cứ khoanh tay để mặc cho nước chảy bèo trôi được, chú hiểu không. Không thể thế được! Có lúc lão nghĩ: mình phải nghỉ thôi để lấy lại sức Lão còn trẻ đâu nữa, mà làm ngày mươi, mười hai tiếng cũng khá gay. Nhưng mỗi lần lão nghĩ như thế, lão xem lại công việc để giải quyết nốt, thì lần nào cũng thế, hễ lão định "giải quyết nốt" thì lại chúi đầu vào đến quá mười hai giờ đêm cũng chưa về đến nhà được. Bộ máy càng chạy khỏe, bánh xe lại càng phải quay nhanh. Ở nước chúng ta như thế đấy. Nhịp điệu công việc mỗi ngày một dồn dập, cho nên bọn già như lão, dù muốn hay không, cũng cứ phải sống như hồi còn thanh niên.
Lê-đê-nhếp đưa tay lên vuốt cái trán cao và nói ân cần như cha với con:
- Thôi bây giờ chú kể cho lão nghe về chú đi.
Lê-đê-nhếp nghe Pa-ven kể những trận thử thách của anh, và Pa-ven thấy người bạn già nhìn anh bằng cặp mắt long lanh ra chiều khuyến khích.
Ở góc sân, dưới bóng cây rậm rạp, một nhóm người bệnh của nhà an dưỡng ngồi chơi. Khơ-ri-xan Séc- nô-cô-dốp ngồi đọc báo "Sự thật" bên chiếc bàn nhỏ, cặp mày rậm nhíu lại. Sơ-mi anh bằng xa-tanh đen, mũ cát-két đã sờn, mặt anh gầy gò, rám nắng, râu lâu ngày không cạo, mắt xanh sâu hoắm, trông rõ ra vẻ một người thợ mỏ chính tông. Mười hai năm trước đây, anh đã từ bỏ cuốc chim, được điều động ra làm công tác lãnh đạo vùng này. Thế mà xem dáng anh đi, cách anh nói và những tiếng anh dùng, người ta tưởng anh vừa mới ở mỏ ra.
Sec-nô-cô-dốp là ủy viên thường vụ xứ ủy Đảng và có chân trong Chính phủ. Một ác bệnh - chứng hoại thư ở chân - làm người anh kiệt sức. Anh căm thù cái chân đau đã bắt anh nằm liệt giường nửa năm nay.
Trước mặt anh là Gi-ghi-rê-va đang ngồi hút thuốc nghĩ ngợi. A-lêc-xan-đơ-ra A-lếch-xê-ep-na Gi-ghi-rê- va năm nay ba mươi bảy tuổi. Chị vào Đảng đã mười chín năm nay. Lúc ấy "Su-rốt-ca, cô thợ kim khí" - đấy là bí danh của chị hồi hoạt động bí mật ở Pê-téc- bua - còn trẻ măng, gần như là một cô bé con, thế mà đã phải nếm mùi đi đày ở Xi-bê-ri rồi.
Người thứ ba cùng ngồi ở bàn là Pan-cốp. Anh nghiêng nghiêng cái đầu đẹp như một bức tượng thời cổ đọc một tờ tạp chí tiếng Đức, chốc chốc lại sửa đôi kính to tướng bằng đồi mồi trên mũi. Thật quái lạ người thanh niên ba mươi bảy tuổi ấy to lớn như một lực sĩ, thế mà khó nhọc mới nhích được cái chân bại liệt. Pan-cốp là biên tập viên báo kiêm nhà văn, cán bộ của Bộ dân ủy quốc gia giáo dục. Anh đã từng ở châu Âu đọc được nhiều tiếng nước ngoài. Trong óc anh có cả một kho kiến thức giàu có, cho nên đến cả Séc-nô-cô-dốp, vốn tính dè dặt, cũng phải tỏ ra kính nể anh.
Gi-ghi-rê-va hất đầu chỉ chiếc ghế bành và bánh xe đun mà Pa-ven đang ngồi, khẽ hỏi Séc-nô-cô-dốp:
- Đồng chí ấy ở cùng buồng với anh có phải không?
Séc-nô-cô-dốp ngừng đọc báo, nét mặt anh bỗng chốc tươi hẳn lên:
- Phải, Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin đấy. Chị nên làm quen với cậu ta, Su-ra ạ. Bệnh tật đã thọc một đống gậy vào bánh xe của cậu ta rồi. Chứ không thì cậu bé ấy sẽ đắc lực ra trò ở những nơi đang gặp khó khăn ấy. Một tay thanh niên cộng sản thuộc lớp đầu tiên. Nói tóm lại, nếu ta hết sức nâng đỡ cậu ấy - mà tôi thì nhất định giúp đấy - cậu ta còn có thể làm việc được.
Pan-cốp để tai nghe. Su-ra Gi-ghi-rê-va vẫn giọng khe khẽ hỏi tiếp:
- Đồng chí ấy đau bệnh gì đấy?
- Hậu quả của năm một nghìn chín trăm hai mươi. Xương sống cậu ấy bị làm sao ấy. Tôi đã hỏi thăm các thầy thuốc. Họ ngại là vết giập ở xương sống làm cậu ta có thể sinh ra bại liệt toàn thân. Chị trông mà xem?
- Để tôi đem ghế đồng chí ấy lại đây.
Thế là quen nhau. Lúc ấy Pa-ven có ngờ đâu Gi- ghi-rê-va và Séc-nô-cô-dốp sau này đã trở nên những người bạn thân của anh, những người đầu tiên nâng đỡ tinh thần cho anh trong những năm bệnh hiểm nghèo sắp đến với anh.
Đời cứ thế mà trôi. Thai-a đi làm, Pa-ven ngồi đọc sách. Hôm ấy, anh chưa đến giờ lãnh đạo nhóm nghiên cứu thì một tai họa mới ngầm đến hại anh. Cả hai chân anh bị liệt. Giờ chỉ có tay phải giơ lên giơ xuống được nữa thôi. Anh cắn môi đến chảy máu cho đến khi cố gượng mãi cũng chẳng ăn thua gì, anh hiểu ra rằng thế là từ nay không nhúc nhích được nữa rồi. Thai-a can đảm chịu đựng, cố giấu không để lộ ra mặt nỗi thất vọng trong lòng và niềm chua xót không sao giúp đỡ chồng được. Còn Pa-ven cười gượng như một kẻ có tội, bảo Thai-a:
- Thai-a ơi, chúng mình nên li dị thôi. Khi hai đứa đính ước với nhau có ngờ đâu có chuyện thế này. Hôm nay anh đã nghĩ kỹ rồi mới nói với em như thế, em bé gái của anh ạ.
Thai-a không để cho Pa-ven nói. Nhưng cũng không sao cầm được nước mắt. Chị khóc nức nở, áp đầu Pa- ven vào ngực mình.
A-rơ-chom được tin về chuyện không may mới của em; anh viết thư nhắn mẹ. Thế là mẹ bỏ mặc nhà cửa đấy, đến ở với con út. Bà cụ và Thai-a ăn ở rất thích hợp tính nết với nhau.
Pa-ven vẫn tiếp tục học tập.
Một buổi tối mùa đông, Thai-a đem về cho anh xem thành tích đầu tiên của Thai-a: tấm thẻ đại biểu Xô-viết thành phố. Từ đấy, Pa-ven ít khi trông thấy mặt vợ. Thai-a thôi không làm chân rửa bát ở ban cấp dưỡng nhà an dưỡng này nữa. Chị sang Xô-viết công tác ở ban phụ vận mà tối nào cũng khuya mới về nhà, người mệt nhưng phấn khởi lắm. Đã gần đến ngày được kết nạp làm đảng viên, Thai-a hết sức hồi hộp phấn khởi thì một tai họa mới nữa giáng xuống gia đình Pa-ven. Bệnh tật cứ phát triển sức tàn phá ác độc của nó. Mắt phải Pa-ven bị sưng đau nhức nhối không thể nào chịu được, rồi đau lại truyền sang cả mắt trái. Lần đầu tiên trong đời, Pa-ven hiểu thế nào là bị mù, tất cả chung quanh bị một tấm màn đen phủ kín.
Thế là trên con đường đời, có một trở lực ghê gớm, không thể nào vượt qua được, đã lẳng lặng trồi lên, chẹn lấy lối đi. Mẹ và Thai-a thất vọng đến cùng cực. Nhưng Pa-ven kiên tĩnh tự bảo mình:
"Phải chờ xem thế nào đã. Nếu quả thật là mình không sao ngoi lên được nữa, cái bệnh mù này ngăn hết đường không cho mình cố gắng để làm việc được, nếu thật sự từ nay mình không còn hy vọng gì trở về chỗ đứng của mình trong đội ngũ thì phải kết liễu cuộc đời".
Pa-ven viết thư cho các bạn thân. Anh nhận được thư của các bạn trả lời, khuyến khích anh kiên trì và vững lòng phấn đấu.
Vào những ngày thật là cay đắng cho anh này, Thai-a sung sướng vui mừng báo tin cho anh biết:
- Anh Pa-vơ-lu-sa ơi, em được kết nạp làm đảng viên dự bị rồi.
Và Pa-ven nghe vợ kể chi bộ kết nạp nữ đồng chí mới như thế nào, cũng gợi lại cho vợ nghe những bước đầu tiên của mình đi vào con đường của Đảng. Anh nắm tay vợ:
- Nữ đồng chí Ca-rơ-sa-ghin-na này, thế là hai vợ chồng mình họp thành một đảng đoàn cộng sản trong nhà này rồi đấy!
Ngày hôm sau, anh viết thư mời đồng chí bí thư quận ủy địa phương đến cho anh gặp. Tối hôm ấy, một chiếc xe hơi lấm bê bết bùn đỗ trước nhà anh. Đồng chí Von-me, một người Lét-tô-ni đã đứng tuổi, râu quai nón, bắt tay Pa-ven:
- Sao, anh thấy trong người có khá không? Sao anh cứ nằm lì mãi thế ? Đấy, có xe hơi đây, dậy đi thôi. Quận ủy phái anh đi công tác ngay lập tức ở nông thôn. - Và đồng chí cười cố làm cho vui.
Đồng chí bí thư quận ủy ở chơi với Pa-ven hai giờ liền, quên khuấy là tối nay có họp. Đồng chí người Lét-tô-ni ấy đi đi lại lại trong phòng nghe câu chuyện thật cảm động của Pa-ven. Cuối cùng, đồng chí nói:
- Thôi, anh đừng nói đến nhóm nghiên cứu nữa nhớ. Anh phải nằm nghỉ cho khỏe. Với lại, phải quyết định thế nào về chuyện đôi mắt đi. Có thể là chưa đến nỗi hỏng cả đâu. Hay là về Mát-xcơ-va chữa, anh thấy thế nào?
Pa-ven ngắt lời:
- Tôi thì tôi chỉ cần được tiếp xúc với những con người, đồng chí Von-me ạ, những người đang sống kia kìa! Nếu để tôi lẻ loi, mình tôi sống với tôi thôi, thì tôi đến tắt ngấm mất. Lúc này hơn lúc nào hết, tôi cần có người làm bạn. Đồng chí cho bọn trẻ đến đây. Bọn trẻ ở nông thôn thì dễ "tả" lắm, nông trang tập thể chưa vừa ý, đòi đến công xã ngay. Nếu để mặc không người chỉ bảo, thì Côm-xô-môn dễ tiền phong chủ nghĩa. Tôi hiểu, vì chính tôi lúc trẻ cũng y như thế.
Von-me dừng bước lại:
- Ai nói mà anh biết được tình hình ấy thế. Mãi hôm nay người ta mới cho tôi hay tin có tình hình ấy xảy ra trong quận đấy.
Pa-ven cười:
- Đồng chí có lẽ không nhớ ra vợ tôi? Hôm qua vợ tôi được kết nạp vào Đảng. Cô ấy cho tôi biết tin ấy đấy.
- À chị Ca-rơ-sa-ghin-na, làm nghề rửa bát có phải không? Vợ anh đấy à? Thế mà tôi không biết đấy!
Suy nghĩ một lát, Von-me mới vỗ trán nói:
- Thôi, để chúng tôi bảo Lép Béc-xê-nhếp sang đây làm bạn với anh. Không có đồng chí nào tốt hơn để đi lại với anh hơn đồng chí đó! Hai người lại rất hợp tính nhau nữa. Thật là hai cái máy biến thế điện cao. Ấy là vì tôi trước kia có làm thợ điện nên ví von như thế. Với lại, Lép sang đây sẽ mắc giúp anh cái ra-đi-ô. Anh ấy rất cừ về môn này. Nhiều khi tôi ở lì bên nhà anh ta nghe ra-đi-ô đến hai giờ đêm. Đến nỗi mụ nhà tôi sinh ra ngờ vực; mụ ấy truy tôi: đêm hôm khuya khoắt la cà đi đâu đấy, hở cái nhà ông lão quỷ khập khiễng này?
Pa-ven mỉm cười hỏi lại Von-me:
- Béc-xê-nhếp? Đồng chí ấy là ai thế nhỉ?
Von-me đi đi lại lại cũng mệt, ngồi xuống một cái ghế dựa, kể lai lịch Béc-xê-nhếp cho Pa-ven nghe.
- Béc-xê-nhếp là công chứng viên ở tòa án đây. Nhưng kiểu anh ấy lâm công chứng viên cũng như tôi làm nhà vũ đạo ấy mà. Cách đây không lâu, anh giữ một chức vụ quan trọng. Vốn là một chiến sĩ cách mạng kỳ cựu, tham gia từ 1912 và vào Đảng từ tháng Mười. Trong nội chiến, làm ở tòa án cách mạng quân đoàn kỵ binh thứ hai. Đã tham gia diệt bọn rệp trắng ở Cô-ca-dơ. Đã từng ở Xa-ri-xưn và ở mặt trận Nam. Sang Viễn Đông, làm chủ tịch tòa án quân sự tối cao nước Cộng hoà. Cũng đã trải lắm mùi đời. Anh ta bị bệnh lao quật ngã. Được đổi từ Viễn Đông sang đây. Thoạt đầu về Cô-ca-dơ, làm chánh án tỉnh, phó chánh án xứ. Song phổi bị rữa hết rồi. Giờ mới đổi về đây, để khỏi nghoẻo mất. Lịch sử đồng chí công chứng viên kỳ lạ của chúng ta là như thế. Công tác công chứng viên đỡ mệt; cũng để cho anh ấy thở một tí. Nhưng rồi người ta cứ từ từ giao cho anh ấy phụ trách một chi bộ, rồi nhét cho anh ấy phụ trách trường Đảng, rồi lại cử vào ban kiểm tra; anh ấy là ủy viên thường trực của các tiểu ban điều tra về các vụ án hóc búa và phức tạp. Ngoài ra lại là một tay đi săn và chơi ra-đi-ô rất ham. Anh ấy chỉ còn một bên phổi thôi thế mà chẳng ai tưởng là anh lao cả. Sức sống anh ta trào ra khắp mọi lỗ chân lông. Thế nào rồi cũng có hôm chết giữa đường chạy từ quận ủy về tòa án cho mà xem.
Pa-ven gắt lên ngắt lời Vôn-me:
- Sao các đồng chí dồn cho anh ấy lắm việc thế ! Công tác đồng chí ấy lại nặng hơn trước.
Von-me lấy mắt nguýt Pa-ven.
- Ấy thế đấy, khi tôi giao đồng chí nhóm học tập với thêm một công tác gì nữa thì Lép bấy giờ cũng kêu lên: "Cậu ấy có phải là ngựa thồ đâu". Nhưng chính anh ấy lại bảo là: "Thà sống một năm, làm cho ra làm, còn hơn sống mòn mỏi năm năm, cứ ốm ngoặt, ốm ngoẹo". Chỉ có xây đựng chủ nghĩa xã hội xong rồi thì mới nói đến chuyện con người ta thôi phải làm việc quá sức được.
- Đúng như thế. Tôi cũng tán thành sống cho ra sống một năm còn hơn sống vật vờ năm năm. Nhưng nhiều khi chúng ta phung phí sức lực của chúng ta một cách tội lỗi vô cùng. Tôi bây giờ mới hiểu rằng cái tính bồng bột liều lĩnh không suy nghĩ, chẳng lấy gì làm anh hùng lắm. Mãi bây giờ tôi mới nhận ra tôi không có quyền phá hoại không thương tiếc sức khỏe của tôi. Làm như thế có phải là anh hùng đâu. Nếu đừng có sống cái cách khắc khổ cực đoan thì có phải bây giờ tôi còn đứng vững được nhiều năm nữa. Nói tóm lại, một trong những nguy cơ chính sinh ra cái tình cảnh tôi bây giờ là cái bệnh ấu trĩ tả khuynh ấy.
"Giờ thì anh chàng nói vậy. Nhưng mà giá đứng dậy đi được thì lại quên ngay cả trời đất mà thôi". Vôn-me nghĩ vậy, nhưng không nói ra.
Tối hôm sau Lép đến tìm Pa-ven. Mãi nửa đêm, hai người mới chia tay nhau. Khi từ biệt người bạn mới, Lép có cảm tưởng như gặp lại một đứa em trai đã lâu năm biệt tăm.
Sáng ngày ra, anh em đến trèo lên mái nhà Pa- ven trồng cột dây ăng-ten; Lép mắc máy ra-đi-ô trong buồng Pa-ven, vừa làm vừa kể chuyện những bước đường say mê đã qua của đời mình. Pa-ven không trông thấy Lép, nhưng nhờ Thai-a tả, anh biết là Lép có tóc vàng, có mắt sáng, người dong dỏng cao, dáng dấp nhanh nhẹn, nghĩa là đúng y như Pa-ven tưởng tượng trong óc, ngay từ những phút đầu tiên mới gặp nhau.
Chiều đến, mở máy ra-đi-ô. Lép trịnh trọng đưa Pa-ven khoác vào tai cái ống nghe. Không gian ồn ào ầm ĩ trăm ngàn tiếng động lộn xộn. Tiếng máy điện báo ngoài cảng ríu rít như chim (chắc biển đâu gần đây); ngoài biển cả, một chiếc máy phát thanh trên tàu biển truyền đi, báo hiệu. Trong đám tiếng động và âm thanh chằng chịt, máy bắt được luồng điện và phát ra tiếng nói bình tĩnh và vững tin:
- Đây là đài phát thanh Mát-xcơ-va.
Dây ăng-ten máy nhỏ này bắt được sáu mươi đài trên khắp thế giới. Cuộc sống ngoài kia mà Pa-ven đã phải xa lìa, nhờ cái màng thép đó mà ập vào phòng này, Pa-ven cảm thấy hơi thở mãnh liệt của cuộc sống ấy.
Thấy mắt bạn có tia sáng rọi lên, Béc-xê-nhếp tuy mệt, cũng mỉm cười.
Trong tòa nhà lớn này, ai nấy ngủ yên cả. Thai- a ngủ mê, nói lẩm bẩm. Đêm nào cũng đến khuya, chị mới về, mệt lả, rét run. Pa-ven không mấy khi gặp vợ. Thai-à bị hút vào công việc, bận tíu tít thì càng ít có tối rỗi ở nhà. Pa-ven nhớ lời Béc-xê-nhếp nói với mình:
- Nếu vợ một người bôn-sê-vích mà cũng là một đồng chí Đảng thì hai người thật ít có dịp trông thấy nhau. Như thế có hai cái lợi: không bao giờ chán nhau được mà cũng không có thời giờ cãi nhau nữa!
Pa-ven có thể lấy điều đó làm phàn nàn không? Không, anh phải chịu như thế. Có một hồi Thai-a tối nào cũng về với anh. Dạo ấy gần gũi hơn, âu yếm hơn. Nhưng dạo ấy Thai-a chỉ có là bạn trăm năm, là vợ của anh thôi. Bây giờ thì Thai-a còn là học trò anh và đồng chí Đảng của anh.
Anh hiểu Thai-a càng tiến thì càng ít có thời giờ săn sóc đến anh. Anh nhận như thế, điều đó tất nhiên.
Đảng giao anh lãnh đạo một nhóm nghiên cứu.
Tối đến, nhà lại huyên náo. Những tối họp với bọn trẻ làm cho nghị lực của anh như được tôi luyện lại.
Ngoài những lúc ấy ra, anh chỉ mắc ống nghe vào tai, bà mẹ vất vả mới bảo anh bỏ ra được để ăn cơm.
Anh mù không đọc được sách thì nay ra-đi-ô lại giúp anh học tập. Lòng ham học không gì thắng nổi làm anh quên hết đau đớn quằn quại của cơ thể tàn tạ quên đôi mắt nhức hỏng và quên tất cả cuộc đời anh thật lắm gian truân mà ít được trìu mến.
Khi qua làn dây ăng-ten, máy phát ra tiếng nói từ công trường xây dựng Ma-gơ-nhi báo tin những thành tích mới của lớp trẻ dưới ngọn cờ Đoàn đang xông lên thay thế cho thế hệ của những Pa-ven, thì Pa-ven cảm thấy vui sướng sâu xa.
Anh tưởng tượng cơn bão tuyết, hung hãn như đàn sói dữ, những trận rét ghê người ở vùng U-ran. Gió gầm thét và trong đêm sâu, mưa tuyết dưới ánh đèn than cháy rực, một đơn vị thanh niên cộng sản thuộc thế hệ thứ hai đang gội tuyết trèo lên lợp kính trên những tòa nhà khổng lồ, để bảo vệ những xưởng đầu tiên mới xây dựng của khu công nghiệp lớn vào hạng nhất thế giới này, chống lại bão tuyết và gió lạnh. So với chiến công của họ, cuộc đấu tranh chống lại bão táp của lớp thanh niên cộng sản đầu tiên thành Ki-ép ở công trường trong rừng sâu ngày trước thật chẳng thấm vào đâu.
Đất nước đã lớn lên, những con người cũng lớn lên.
Trên sông Đơ-nhi-ép, thác lũ đổ về, cuốn băng những đập chôn xoáy người và máy móc. Những thanh niên cộng sản lao mình vào trấn ngự cơn nước lũ tràn bờ. Đấu tranh hai ngày ác liệt, không ngủ, không nghỉ qua một phút, họ mới dẫn được dòng nước lũ lui về nép mình trong bờ thép. Thế hệ thanh niên cộng sản mới lại đi hàng đầu trong cuộc đấu tranh vĩ đại. Trong danh sách những anh hùng được đọc tên ở máy truyền thanh, Pa-ven sung sướng đón nghe cái tên chí thân chí thiết: Pan-cơ-ra-tốp.