Chương 3
Hãy để tôi được bắt đầu bằng vài nét miêu tả về mái tóc của cô ấy - bởi vì, quả thực, không thể bắt đầu bằng bất cứ điều gì khác được. Mái tóc của cô giống như những chùm nho Tartarus(12) mọc trong đêm, vươn lên từ một nơi tối tăm đến nỗi ánh sáng mặt trời chỉ là lời đồn thổi. Nó mọc lan ra khắp nơi, những lọn quăn đen rủ xuống quyến rũ tới mức trông chúng như thể sẵn sàng nuốt chửng tay bạn nếu bạn may mắn được lướt những ngón tay của mình qua vậy. Mái tóc của cô lạ lùng đến độ thậm chí giờ đây, sau rất nhiều năm, tôi vẫn phải ngồi chế ra những ẩn dụ vớ vẩn này đây, việc tôi biết sẽ làm mình phải tiếc thương mỗi sáng.
Đôi mắt của cô cũng sắp làm tôi cảm thấy lúng túng. Nó cháy bùng như trái tim xanh lét của bao cặp tình nhân ghen tuông cứ buộc tội nhau mỗi khi đêm về. Không, tôi nhầm rồi, mắt cô không phải màu lục: nó màu xanh nước biển. Những con sóng đại dương cuộn lên trong tròng mắt cô, như một cơn bão bất ngờ ập đến, sẵn sàng cướp lấy viên thủy thủ khỏi người vợ của anh. Không, đợi chút... có thể mắt cô màu xanh lục: đôi mắt có khả năng thay đổi màu sắc tùy tâm trạng, có lẽ vậy, như những chiếc nhẫn cẩn đá quý công khai chuyển màu theo cảm xúc người đeo.
Cô xuất hiện tại khoa bỏng trong bộ áo dành cho người thăm bệnh màu xanh lá cây nhạt, với đôi mắt khó hiểu cùng mớ tóc rối tinh rối mù, và tôi đợi một cử chỉ há hốc miệng quen thuộc của bất cứ ai mới nhìn thấy tôi lần đầu. Tôi đợi cô lấy tay che miệng vì sốc và kinh hãi. Cô làm tôi thất vọng khi chỉ nở nụ cười:
"Anh bị bỏng. Một lần nữa."
Thông thường tôi luôn tuân theo quy tắc không đáp lại bất cứ câu nói kỳ quái nào của người lạ. Nhưng, thành thực mà nói, trong trường hợp này sự im lặng của tôi xuất phát từ việc tôi không muốn cô nghe cái giọng vịt đực như toilet vỡ của tôi. Cổ họng tôi đang lành lại, nhưng tai tôi (bên còn nghe được) vẫn chưa quen với chất giọng thảm hại hiện tại. Tôi chỉ muốn cô nghe được giọng nói trước đây của mình, giọng nói có thể dụ dỗ phụ nữ lên giường.
Trước sự im lặng của tôi, cô nhắc lại. "Đây là lần thứ ba anh bị bỏng."
Tôi thu hết can đảm và chỉnh cô. "Mới một lần thôi."
Một thoáng bối rối hiện ra trên mặt cô. "Có lẽ anh không còn là mình nữa."
Cô tiến lại giường tôi, mắt không ngừng xoáy sâu vào mắt tôi, kéo chặt những tấm rèm nhựa dày mắc xung quanh chúng tôi để đảm bảo cuộc nói chuyện được riêng tư. Cô rướn người về trước, cách tôi có vài phân, chăm chú nhìn vào mặt tôi. Chưa có bất cứ ai nhìn tôi kiểu ấy, trước vụ bỏng cũng vậy và hiển nhiên là kể từ sau đó thì càng không. Mắt cô, lấp lánh lúc xanh lục, lúc xanh biển, có những quầng thâm đen phía dưới, như thể cô chưa ngủ cả tuần liền rồi. Khi môi cô gần như chạm vào môi tôi, cô thì thầm một từ. "Engelthal."
Không nghi ngờ gì nữa, thưa bạn đọc, bạn hẳn đã có lúc nào đó trong đời mặt đối mặt với một người điên chứ. Bạn có thể cảm nhận được sự điên rồ ngay lập tức, thường thì ngay trước khi đối phương có cơ hội nói được gì, nhưng cái câu rất vô nghĩa này cứ bám chặt lấy tôi. Gặp một người điên thì chẳng có gì đáng nói cả, vì cả thế giới đều sống chung với họ; cái thu hút tính hiếu kỳ của tôi là phản ứng của chính bản thân kia. Thông thường với mỗi cuộc gặp gỡ như vậy, bạn chỉ muốn tránh ra xa. Nếu đang đi trên phố, bạn sẽ nhìn vội sang chỗ khác rồi rảo bước nhanh hơn, nhưng ở phòng điều trị bỏng cách duy nhất tôi có thể làm là rung chuông gọi y tá. Nhưng tôi đã không làm thế. Phản ứng duy nhất của tôi trước tình huống có thể rất nguy hiểm này là không phản ứng gì cả. Vậy ai điên hơn, người phụ nữ tóc tai rối bù hay là tôi?
Cô lùi lại một bước. "Anh không nhớ gì cả."
"Phải." Cho dù điều cô nghĩ lẽ ra tôi phải nhớ có là gì đi nữa thì cũng rõ như ban ngày là tôi không nhớ gì hết.
"Thế càng thú vị," cô nói. "Anh có biết họ đang cố đầu độc những trái tim của tôi không?"
"Không," tôi lại trả lời, nhưng cảm thấy hứng thú với điều mà một nhận xét vu vơ có thể dẫn đến. "Họ làm thế à?"
"Phải, tôi không thể để họ làm thế, vì tôi cần phải sám hối hết tội lỗi đã." Cô nhìn quanh, như thể lo lắng không biết mình có bị nghe trộm không. "Lần này làm sao mà anh bị bỏng?"
Tôi đã có thể nói nhiều câu ngắn một lúc, miễn là nhớ dừng lại để thở, nên tôi kể cho cô nghe qua vài chi tiết về vụ tai nạn của mình - khi nào, ở đâu, thế nào, đã bao lâu rồi. Rồi tôi hỏi tên cô.
"Anh biết tên tôi mà." Cô cứ đưa tay lên ngực mình như thể mong đợi sẽ tìm thấy gì ở đó, một thứ hiển nhiên đã mất. Động tác của cô làm tôi nhớ đến cách tôi vẫn luôn chà vết bớt bẩm sinh trên ngực mình.
"Cô đang làm gì đấy?" tôi hỏi.
"Họ lấy mất cái vòng cổ của tôi rồi. Họ nói nó có thể được dùng để làm hại ai đó," cô trả lời. "Một bé gái mới chết."
Tôi nghĩ tới Thérèse. "Làm sao cô biết?"
"Ồ, tôi biết một chút về người chết" - cô cười - "nhưng tôi nghĩ chúng ta khá may mắn."
"May mắn thế nào?"
"Chúng ta đã sống lâu hơn một cô bé bảy tuổi. Chúng ta đã sống lâu hơn cô ấy một trăm lần."
"Cô đang nói cái gì đấy?"
"Tôi có một con chó tên là Bougatsa." Những ngón tay của cô, giờ đang đặt trên mạng sườn, giật liên hồi. "Nó sẽ rất thích anh."
"Tôi không thích chó."
"Anh sẽ thích thôi."
"Chúng không thích tôi."
"Ồ. Vì anh quá cố chấp và xấu tính, phải không?"
Có phải cô ấy đang móc máy một nạn nhân bỏng thật không?
"Cái tên ấy có nghĩa là gì?" tôi hỏi. "Bougatsa ấy."
"Đấy là phần nhân trong bánh ngọt kiểu Hy Lạp, và con chó của tôi có màu y như thế. Có lẽ tôi sẽ mang nó đến thăm anh."
"Chó không được phép vào đây." Thở dốc. "Thậm chí cả hoa cũng có thể giết tôi."
"Ha! Đừng nghĩ tôi là đứa ngốc. Anh biết rõ mình sợ những thứ kinh khủng hơn chó đấy." Cô nhẹ nhàng đặt tay lên ngực tôi, thật dịu dàng. Tôi rùng mình, không chỉ vì sự đụng chạm và còn vì ánh sáng lóe lên trong mắt cô. "Anh rất muốn tự kết liễu bản thân và tôi không thể buộc mình trách anh được. Nhưng sẽ có một thời khắc, một nơi nào đó cho những chuyện như thế, chỉ có điều không phải tại đây và vào lúc này."
Sao cô lại nói những điều như thế? Tôi thấy cần phải thay đổi chủ đề. "Cô trông rất ổn so với một người bảy trăm tuổi đấy."
"Anh thì không," cô nói, nhìn xuống khắp người tôi. Đây là lần đầu tiên có ai đó đùa cợt về những vết bỏng của tôi. "Thế, anh nghĩ tôi nên làm gì với những trái tim của mình?"
"Tôi nghĩ..." Tôi dừng lại một chút, để làm cô nghĩ mình đang rất cẩn thận suy xét vấn đề, trong khi thực tình tôi chỉ chuẩn bị cho độ dài của câu nói sắp tới mà thôi. "Tôi nghĩ cô nên trao nó cho những người chủ xứng đáng."
Mắt cô mở to, như thể tôi vừa tra chìa vào một ổ khóa bí mật, và tôi băn khoăn không biết mình có ấn nhầm nút vào phòng bệnh tâm thần không. Nhưng, rất nhanh chóng, nét mặt hân hoan của cô được thay thế bằng sự hoài nghi. Cô đi tới một góc giường của tôi, đứng nói gì đó bằng một ngôn ngữ khác. "Jube, Domine benedicere." (13) Tiếng Latin? Theo sau là một cuộc trò chuyện ngắn, cô nói chuyện với hư không, bằng thứ ngôn ngữ tôi không thể hiểu, chờ những lời đáp tôi không thể nghe thấy. Sau khi cuộc nói chuyện tưởng tượng thứ nhất kết thúc, cô cúi rạp đầu rồi đi ra góc giường thứ hai và lặp lại bài biểu diễn. Và rồi, góc thứ ba. Cô kết thúc mỗi cuộc nói chuyện theo đúng cách đã bắt đầu - "Jube, Domine benedicere." - rồi cô quay trở lại vị trí ban đầu, không còn gợn chút hoài nghi.
"Ba Vị Chủ Nhân của tôi khẳng định đó thực sự là anh. Vì anh tôi sẽ cố gắng hoàn thiện trái tim cuối cùng của mình."
Câu nói này rõ ràng đã làm dâng trào cảm xúc trong cô. Cô trông như sắp khóc khi nói, "Tôi đã chờ anh quá lâu rồi."
Ngay lúc ấy, Beth đến kéo rèm ra. Cô có vẻ sốc khi thấy tôi có khách đến thăm sau rất nhiều tuần trơ trọi, nhưng sự sửng sốt của cô nhanh chóng chuyển thành lo ngại khi cô nhận thấy tia nhìn sung sướng đầy điên dại ánh lên trong mắt người phụ nữ đến thăm. Sau đó Beth phát hiện ra tuy vị khách của tôi mặc đồng phục nhưng đó không phải tông xanh lá dành cho khách đến thăm mà là sắc xanh nhạt hơn dành cho bệnh nhân, và rằng người phụ nữ kia đang đeo một cái vòng màu có mã số dành cho bệnh nhân tâm thần. Beth, chuyên nghiệp như thường ngày, không va chạm trực tiếp với khách của tôi mà nói rằng cô từ chối để tôi ở một mình với người đó. Cô gọi ngay một tay hộ lý đến để "hộ tống" người phụ nữ trở lại khoa tâm thần.
Tôi chẳng cảm thấy sợ hãi gì hết và, thực sự, có chút hoang dại thổi vào bầu không khí khô khốc đến ngột ngạt này kể cũng hay. Trong vài phút ngắn ngủi trước khi tay hộ lý tới, người phụ nữ và tôi tiếp tục nói chuyện, một cách nhẹ nhàng, trong khi Beth đứng ở góc xa nhìn cả hai với ánh mắt cảnh giác. Người khách của tôi nói thầm để không bị nghe lỏm. "Chúng ta có chung một người quen."
"Tôi nghi ngờ chuyện đó đấy."
"Anh chỉ mới gặp bà ấy một lần, trong đám đông. Bà ấy không nói được," cô nói, rướn lại gần tôi hơn, "nhưng bà ấy cho anh một manh mối."
"Một manh mối?"
"'Cháu chưa bao giờ băn khoăn vết sẹo của mình thực sự từ đâu mà có ư?'"
Người khách đặt tay lên ngực mình và tôi nghĩ cô chuẩn bị chỉ vị trí vết sẹo trên người tôi, nhưng cô chỉ tìm kiếm vô vọng chiếc vòng cổ bị thất lạc của mình mà thôi.
Làm sao người phụ nữ này có thể đoán chính xác những từ trong mảnh giấy được trao cho tôi tại buổi biểu diễn tàu lượn? Tuy nhiên, tôi là một người rất lý trí - đây chỉ là một sự trùng hợp kỳ lạ, không hơn không kém. Để chứng minh điều đó, tôi cố đánh lạc hướng cô một chút: "Cả người tôi đã là một vết sẹo rồi."
"Không phải những vết bỏng của anh. Mà là vết sẹo bẩm sinh, nằm trên trái tim anh ấy."
Ngay lúc ấy, tay hộ lý xuất hiện và bắt đầu công đoạn thuyết phục người phụ nữ rời đi. Beth cũng giúp một tay, lấy thân hình mình đẩy người phụ nữ ra phía cửa.
Giọng tôi vẫn chưa được khỏe nhưng tôi cố cao giọng hết mức. "Làm sao cô biết?"
Người phụ nữ quay lại phía tôi, mặc kệ những cánh tay đang kéo khuỷu tay mình. "Vấn đề của những người như chúng ta là chúng ta không chết một cách đúng nghĩa."
Chỉ được đến thế, người bảo vệ đã kéo cô ra khỏi phòng.
Luôn có lời giải thích logic cho tất cả mọi chuyện; vì thế, cũng có một lời giải thích logic vì sao người phụ nữ ấy biết chuyện vết sẹo của tôi.
Lời giải thích thứ nhất: chó ngáp phải ruồi.
Lời giải thích thứ hai: một trò đùa do bạn tôi bày ra, ai đó nghĩ việc cử một diễn viên đóng vai người phụ nữ tâm thần có chút hiểu biết về cuộc đời tôi đến là một trò thú vị lắm. Vấn đề của giả thiết này là tôi chưa bao giờ kể cho bất cứ người bạn nào về người phụ nữ châu Á gặp tại trường bay, và tôi cũng chẳng còn đứa bạn nào để trêu chọc mình cả.
Lời giải thích thứ ba: người phụ nữ này thích các bộ phim khiêu dâm tôi đóng và biết về vết sẹo trên ngực tôi. Nó hiện rõ trên phim, vì tôi chẳng bao giờ buồn bôi phấn che cả. (Thêm vào đó thể loại phim ảnh của tôi tốn hơi nhiều mồ hôi.) Chỉ có điều tôi được đăng ký nhập viện với tên thật chứ không phải nghệ danh, và với bộ dạng hiện tại của tôi thì cô không thể nhận ra con người tôi trước đây được.
Lời giải thích cuối cùng: người phụ nữ này yêu những bộ phim khiêu dâm tôi đóng, và đã lần theo dấu vết công ty sản xuất đã ngừng hoạt động của tôi. Một kẻ nào đó, có thể là lão luật sư chết tiệt của tôi, đã cho cô biết về vụ tai nạn của tôi và chỉ cho cô đường đến khoa bỏng.
Nhưng nếu cô là một fan cuồng nhiệt, sao cô không nói gì đến nghề trước kia của tôi? Và nếu cô đến để tìm người diễn viên mình từng thấy trước đây, làm sao cô có thể tỏ ra hài lòng đến thế khi nhìn thấy con người mới của tôi?
Và, cuối cùng là, dù hầu hết hành vi của người phụ nữ ấy đều rất kỳ cục, nhưng chắc chắn không có biểu hiện gì của một kẻ nghiện phim khiêu dâm loại nặng cả. Tin tôi đi, đời tôi đã gặp đủ bọn biến thái để có thể chỉ ngay ra một tên giữa đám đông rồi.
Tôi nghĩ mình sẽ hỏi lại khi cô đến gặp tôi lần nữa, vì không hiểu sao tôi linh cảm cô sẽ lại tới. Khi tôi nói với mấy cô y tá là tôi hoan nghênh bất cứ cuộc gặp gỡ sắp tới nào với nữ bệnh nhân tâm thần đó, họ đều nở một nụ cười lạ lẫm với tôi. Hẳn họ cho rằng thật đáng buồn khi tôi lại trông đợi cuộc viếng thăm của một phụ nữ tâm thần. Nhưng điều đó chẳng cản trở được tôi, và tôi thậm chí còn nhờ Beth hỏi hộ tên người ấy. Cô từ chối luôn, thế là tôi nhờ Connie. Cô cũng nói việc tiết lộ tên tuổi một bệnh nhân khác là trái với nội quy bệnh viện. Trước tình hình đó, tôi bảo với Connie là cô sẽ "rất, rất xấu" nếu không chịu giúp tôi hỏi tên của người duy nhất đã đến thăm tôi sau một thời gian dài như thế. Và vì mong muốn được làm người tốt hơn bất cứ điều gì trên đời, Connie nhanh chóng quay trở lại kèm theo thông tin mà tôi yêu cầu.
Tên người phụ nữ đó là Marianne Engel.
Tôi cao hơn so với trước vụ tai nạn. Vụ cháy đã làm tôi khô quắt lại như miếng thịt bò khô trong suốt đợt trị liệu. Tôi đã từng thanh thoát và đẹp đẽ như một cậu bé Hy Lạp ở thế kỷ thứ ba, với cặp mông căng tròn như hai nửa quả dưa chín mọng mà những doanh nhân Nhật Bản phải trả một khoản kha khá để vuốt ve. Da tôi mềm mại và sạch tinh như sữa chua chưa đánh, bụng tôi được chia thành từng múi đối xứng, còn đôi cánh tay vạm vỡ mà rất mượt mà. Nhưng khuôn mặt tôi mới chính là vàng mười. Tôi sở hữu đôi gò má xuất hiện trong những giấc mơ của nhà thơ Pháp Verlaine. Mắt tôi đen và sâu thẳm đến nỗi một đoàn thám hiểm hang động nhỏ phải dành cả ngày mới tham quan hết. Một người đồng tính từng nói với tôi anh ta biết bao khao khát được nhẹ nhàng đặt của quý thâm sì của mình vào môi dưới tôi. Tôi đã cười anh ta nhưng trong lòng thì lén lút xem đó là một lời khen tuyệt vời.
Kể từ sau vụ tai nạn, tôi đã cố gắng từ bỏ sự tự mãn của mình, nhưng nội tâm vẫn còn đấu tranh rất dữ dội. Tôi nhớ quá khứ, nhớ khi khuôn mặt tôi thật hoàn hảo, và khi cơn gió nhẹ hất tóc tôi lên làm nó trông như phần lông dưới mềm mại của cánh chim. Tôi nhớ lúc phụ nữ đi trên đường quay lại cười với tôi, tự hỏi sẽ tuyệt diệu đến thế nào nếu được sở hữu vẻ đẹp của tôi dù chỉ trong giây phút lóe sáng ngắn ngủi.
Nếu có thể chấp nhận bài miêu tả về một con quái vật là tôi bây giờ đây, bạn cũng nên chấp nhận bài miêu tả về một mỹ nam là tôi trong quá khứ. Và từ khi gặp Marianne Engel, tôi cảm nhận sự mất mát - đặc biệt tại khoảng trống giữa hai chân mình - càng thêm sâu sắc.
Phòng tôi lại vinh dự đón cô mười ngày sau đó, cô mặc chiếc áo choàng trông có vẻ là một trong những bộ trang phục được cắt may đẹp nhất thời Trung cổ. Không phải tôi đang kể chuyện cho vui với các bạn đâu; cô đã mặc cái thứ ấy thực đấy. Chiếc mũ trùm đầu lơ lửng trên mặt, đôi mắt sáng như những viên ngọc bích lấp lánh trong mỏ. Cô đặt một ngón tay lên môi, dặn tôi giữ im lặng, và lén lút đi tới bên giường. Tôi muốn cười phá lên nhưng nhận ra với cô, đây là một vấn đề nghiêm túc. Ngay khi đến bên cạnh tôi, cô kéo luôn rèm cửa để chúng tôi có thể, một lần nữa, có được sự riêng tư. Cô lẽ ra chẳng cần phải lo lắng quá, vì trong phòng chỉ có mỗi hai bệnh nhân khác thôi mà một người đã ra khỏi phòng để luyện tập phục hồi chức năng còn người kia thì đã ngáy khò khò rồi.
Phía sau hàng rào nhựa ấy, cô cảm thấy đủ an toàn để kéo mũ trùm đầu ra sau - một chút, không kéo hết - và tôi có thể thấy những quầng thâm dưới mắt cô đã biến mất. Cô trông tỉnh táo hơn trong lần gặp đầu tiên của chúng tôi nhiều, và có mùi thuốc lá rất đậm trên người cô. Tôi băn khoăn không biết có phải cô đã chôm chỉa từ người y tá nào không hay chỉ là họ lờ đi không xét nét cô. Do một lần nữa cô không mặc đồng phục chuẩn dành cho khách thăm bệnh, tôi ngờ rằng họ không biết tí gì về chuyện cô vào đây. Cô cứ đặt tay ở góc mũ suốt, như thể sẵn sàng kéo nó ra sau ngay lập tức.
"Tôi không muốn họ biết tôi đang ở đây."
"Các bác sĩ ấy hả?"
Marianne Engel gật đầu. Tôi nói với cô rằng cô không có gì phải sợ, họ đều là người tốt.
"Anh không biết mấy về các bác sĩ đâu." Cô thọc tay vào cổ áo rồi kéo một sợi dây da treo lủng lẳng cái đầu mũi tên ra. "Nhìn này, tôi đã lấy lại được vòng cổ của mình rồi." Cô nhấc chiếc vòng qua đầu rồi chìa ra, phía trên ngực tôi, để cho đầu mũi tên đung đưa như một cái bùa ma thuật đang tìm kiếm trái tim tôi. "Cho phép tôi nhé?"
Tôi không biết cô muốn gì nhưng vẫn gật đầu.
Marianne Engel hạ thấp tay xuống, thả lỏng sợi dây da để đầu mũi tên chạm vào ngực tôi. "Cảm thấy thế nào?"
"Như thể nó thuộc về nơi đó vậy."
"Chắc chắn rồi."
"Sao cô biết về vết sẹo trên ngực tôi?"
"Đừng vội. Giải thích những chuyện như thế cần có thời gian." Cô nhấc sợi dây chuyền khỏi ngực tôi và đeo lại vào cổ mình. "Còn bây giờ, tôi kể anh nghe câu chuyện về một con rồng nhé."
"Ngày xửa ngày xưa, có một con rồng tên là La Gargouille sống ở Pháp, bên dòng sông Seine. La Gargouille là một con rồng bình thường như bất cứ con rồng nào khác với vảy màu xanh, cổ dài, bộ móng vuốt sắc nhọn và đôi cánh nhỏ tưởng không hỗ trợ mấy cho việc bay nhảy nhưng hóa ra cũng có ích. Như hầu hết các con rồng khác, nó có thể thở ra lửa, phun ra hàng lít nước, xé toạc những thân cây to lớn bằng móng vuốt của mình.
"Cư dân của thành phố gần đó, Rouen, căm ghét con rồng và luôn sống trong sợ hãi. Nhưng họ có thể làm gì? Nó mạnh hơn họ rất nhiều, thế là mỗi năm họ phải nộp một vật cúng tế với hy vọng xoa dịu nó. La Gargouille thích các trinh nữ, thói quen cố hữu của loài rồng, nhưng dân làng lại có xu hướng cống nạp bọn tội phạm. Bất luận thế nào, việc con người bị ăn thịt nhìn chung là một chuyện rất khủng khiếp.
"Chuyện này kéo dài hàng thập kỷ. Cuối cùng, khoảng những năm 600 sau Công nguyên, một linh mục tên là Romanus đặt chân lên thành phố này. Ông đã nghe kể về con rồng và muốn thử khuất phục con quái thú. Romanus đề nghị, nếu mọi người đồng ý xây một nhà thờ, và nếu dân làng chịu làm lễ rửa tội, ông ta sẽ tiêu diệt con rồng. Dân làng, tất nhiên chẳng ngốc nghếch gì, nhận ra ngay đây là một món hời. Họ có mất mát gì đâu, trừ một con rồng?
"Thế là Romanus đi tới bờ sông Seine, mang theo một quả chuông, một quyển Kinh Thánh, một cây nến và một chiếc thập tự giá. Ông ta thắp nến, cắm xuống đất, mở quyển Kinh Thánh ra rồi lớn tiếng gọi La Gargouille. Con ác thú trồi ra từ trong hang chẳng chút ngần ngại; xét cho cùng, nó là một con rồng, việc quái gì nó lại phải sợ một con người tầm thường chứ? Gì thì gì, một vị khách như thế với nó cũng chẳng hơn gì một bữa thịt tươi.
"Ngay khi con rồng xuất hiện, Romanus liền rung chuông - như một lời báo tử - và bắt đầu đọc to những lời răn của Chúa.
"Con rồng khịt ra những bụm khói nhỏ khi nghe thấy tiếng đọc kinh, như thể chuyện đó làm nó khoái chí lắm, cho đến khi nó nhận ra mình không thể phun lửa tùy thích được nữa. Phổi nó đau rát rồi sau một thoáng bắt đầu xẹp xuống, chẳng còn tí hơi nào.
"Nhận ra mình không thể tiêu diệt vị mục sư bằng lửa nữa, La Gargouille phóng vụt tới chỗ ông. Romanus nhấc thập tự giá lên và mạnh mẽ giơ ra trước mặt con quái thú, làm nó không thể tiến thêm được bước nào nữa, như thể có một bàn tay vô hình đang đẩy nó lại phía sau. Dù con vật có xoay chuyển thế nào đi nữa, Romanus cứ lặp đi lặp lại hành động đó, và La Gargouille không thể tiến lại gần người đang tra tấn nó chút nào. Một tay cầm thập tự giá và một tay ôm quyển Kinh Thánh, Romanus tiếp tục đọc kinh với một niềm tin thuần khiết; mỗi tiết như một mũi tên xuyên sâu xuống lớp vảy rồng, và mỗi chương như một ngọn giáo cắm phập vào mạng sườn của nó.
"Cả đời La Gargouille chưa bao giờ phải chịu những chuyện như thế này, nó bắt đầu thoái lui. Nó nhìn khắp trái phải nhưng Romanus đã dùng cây thập tự giá đẩy nó về phía sau. Một khi con rồng đã bị kẹt cứng trong hang động của nó, vị linh mục tiếp tục đọc kinh không ngừng nghỉ cho tới khi con rồng khuỵu xuống đầu hàng. Mọi việc chỉ kết thúc khi Romanus gập cuốn Kinh Thánh lại và thổi tắt ngọn nến; nghi thức đã hoàn thành và con quái thú đã bị thuần hóa.
"Không còn chút ý chí chiến đấu nào, La Gargouille cúi đầu chấp nhận để Romanus choàng chiếc áo tế của ông quanh cổ nó. Sau đó vị mục sư dùng cây thập tự giá thắt nút dây trói thật chặt, rồi dẫn con rồng thất trận quay trở về thành phố.
"Cách duy nhất để giết chết một con rồng là trói nó vào cọc rồi đem đi thiêu sống, tất cả mọi người đều biết chuyện đó, và thế là mọi thứ được tiến hành. La Gargouille rú lên đau đớn, nhưng đối với dân làng âm thanh ghê rợn đó nghe như một thứ nhạc ngọt ngào. Tiếng gào thét vang mãi không ngừng vì đầu và cổ của La Gargouille không chịu cháy rụi - khả năng khạc ra lửa của loài rồng đã tôi luyện cho những vùng đó sức mạnh chống lại sự tàn phá của lửa. Nhưng cuối cùng thì con quái vật cũng chết, và dân làng đã thoát khỏi lời nguyền khủng khiếp của họ.
"Người dân thị trấn rất chính trực và họ đã thực hiện đầy đủ bản giao kèo. Tất cả mọi người đều đồng ý làm lễ rửa tội, và họ dựng một nhà thờ. Cái đầu không bị cháy rụi của La Gargouille được treo trên mái và, trong hàng bao thế kỷ tới, sẽ được dùng làm nguyên mẫu cho các loại chimera(14) và gargoyle."
Marianne Engel hoàn toàn chìm đắm trong câu chuyện của mình, cho tôi cơ hội quan sát cô kỹ lưỡng hơn. Mắt cô, hôm nay có màu xanh nước biển, đã thôi đảo quanh cảnh giác với các bác sĩ. Cô nhìn tôi chằm chằm, trực diện, đến mức tôi cảm thấy ngượng. Ánh nhìn đầy nhục cảm và khiêu khích.
Cô không phải kiểu phụ nữ bạn có thể liệt vào hạng vẻ đẹp cổ điển. Răng cô hơi nhỏ so với miệng, nhưng tôi luôn thấy những người có hàm răng nhỏ khá quyến rũ. Tôi nghĩ lông mày cô hơi quá rậm rạp so với gu của một số đàn ông nhưng, nói thật nhé, bọn ấy là một lũ ngu. Điểm đáng bàn duy nhất trên khuôn mặt cô là cái mũi, không quá to, tôi phải nhắc các bạn, nhưng chắc chắn không được gọi là thanh thoát. Một chỗ gồ trên sống mũi cho thấy hồi xưa cô từng bị gãy mũi, nhưng tôi nghĩ nó làm cô trông khá cá tính. Người ta có thể kiện rằng lỗ mũi cô trông hơi tẹt, nhưng bất kỳ vị quan tòa sáng suốt nào cũng ném vụ kiện ấy ra khỏi tòa thôi.
Da cô xanh xao, như thể bị cớm nắng. Cô có vẻ gầy, dù chiếc áo choàng của cô làm người ta khó phán đoán được đường nét cơ thể. Cô cao hơn hầu hết phụ nữ khác, nhưng không cao đến mức quá khổ. Khá cao, bạn có thể nói vậy. Cô bao nhiêu tuổi? Rất khó nói chính xác, nhưng chắc gần bốn mươi.
Rất lâu sau khi cô ngừng nói, tôi mới nhận ra mình vẫn tiếp tục nhìn cô chăm chú và cô mỉm cười đáp lại, không có vẻ khó chịu mà khá hài lòng. Tôi thốt ra điều đầu tiên xẹt qua óc. "Cô vừa bịa chuyện đấy à?"
"Không, đó là một truyền thuyết lâu đời." Cô cười vang. "Tôi không có năng khiếu sáng tác truyện, nhưng tôi nắm khá vững lịch sử đấy. Ví dụ, anh có biết Jeanne d'Arc bị thiêu sống ở Rouen và tro của bà ấy bị ném xuống sông Seine không?"
"Không, tôi không biết."
"Suy nghĩ rằng cơ thể bà ấy vẫn là một phần của dòng nước ấy đã giúp tôi thấy thanh thản."
Chúng tôi còn nói nhiều nữa, về khối chuyện. Rồi bác sĩ Edwards, tôi có thể nhận ra tiếng bước chân, bước vào phòng theo lịch trực thường ngày và kéo rèm ra.
"Ồ," bà nói, bất ngờ khi thấy một vị khách. "Tôi có làm phiền không?"
Marianne Engel kéo cái mũ trùm đầu lại rồi đứng bật dậy, suýt thì vướng vào tấm rèm nhựa khi vội vã đi qua bác sĩ Edwards. Trên lối ra, cô còn ngoái lại nhìn tôi khẩn khoản, "Đừng nói với ai nhé."
Những ngày sau cuộc viếng thăm của Marianne Engel, Nan bắt đầu dùng một con dao lóc da bằng điện để "thu hoạch" phần da nguyên lành của tôi và ghép sang vết thương. Bà nói với tôi đây là một bước tiến trong quá trình điều trị, nhưng trông chẳng có vẻ gì như thế cả. Vùng da khỏe mạnh vẫn còn những dây thần kinh đang hoạt động, nên mỗi đợt thu hoạch đúng là đã lóc sạch da trên người tôi, để lại phía sau những vết thương hở miệng. Mất khoảng hai tuần để mỗi bộ phận bị lóc da hồi phục trước khi quá trình lặp lại. Vết thương của tôi lên da non chỉ để lại bị lóc đi lần nữa. Tôi là một trang trại hạ bì, còn con dao lóc da bằng điện là cái máy đập lúa.
Sau mỗi đợt thu hoạch, tôi được bôi đầy kem và quấn trong những lần băng mỏng. Vài ngày sau, một trong những cô y tá, thường là Beth, sẽ thay băng lần đầu tiên sau mỗi đợt điều trị. Nan sẽ đứng cạnh kiểm tra tỷ lệ da ghép thành công - "tỷ lệ da ghép bám sống" - ước lượng tương đối để tính toán xem quy trình thành công hay thất bại. Tỷ lệ da ghép bám sống khoảng tám lăm phần trăm được coi là tốt; bất cứ tỷ lệ nào dưới mức này đều làm Nan cau mày tặc lưỡi. Dưới sáu mươi phần trăm có nghĩa là bà sẽ phải làm thêm một công đoạn cấy ghép nữa.
Ngay cả khi lớp da ghép sống được, sự thiếu hụt tuyến bã nhờn làm phần mô mới cấy luôn trong tình trạng thiếu độ ẩm nghiêm trọng. "Kiến bò dưới da" là một sáo ngữ không những không lột tả được cảm giác, mà còn thiếu tính tượng hình nữa. Bầy mối ăn gỗ vung vẩy cái cưa xích bé tẹo, có lẽ thế; hay lũ cáy khoác chiếc áo lông lá và đi giày bằng sợi thủy tinh; hoặc một quân đoàn chuột con kéo những cái cày nhỏ xíu bằng dây kẽm gai. Đàn gián dưới lớp biểu bì đi giày đá bóng và đeo đinh thúc ngựa của cao bồi nhảy điệu clacket? Có lẽ.
Tôi đêm ngày mong đợi Marianne Engel xuất hiện trở lại.
Tôi nghĩ về cô quá nhiều, và ý nghĩ ấy chiếm hết thời gian mà lẽ ra tôi đã dành để nuôi nỗi sợ bị cắt lọc hay lập kế hoạch tự tử. Khi bụng bắt đầu cảm thấy đau, tôi tự hỏi liệu mình có nhớ cô thật không, người phụ nữ tôi chỉ mới quen. Đây có phải là nhớ mong trông đợi? Tôi quả thật không biết, vì tôi chỉ có cảm giác thế này những khi đường dây ma túy trong thành phố trong tình trạng cháy hàng.
Hóa ra, cảm giác dấy lên trong dạ dày tôi không phải là nhớ nhung gì hết. Bộ ruột bị kích thích của tôi nhanh chóng chuyển từ điệu nhảy flamenco bốc lửa sang một cơn đau nóng rát. Ruột tôi trở nên cay nóng như tiêu ớt và tiếng phách gõ tanh tách trong hậu môn của tôi. Nan chọc tay vào bụng tôi hỏi xem tôi có đau không. Tôi nói với bà là chỗ đó đang diễn ra cuộc Nội chiến Tây Ban Nha chết giẫm. Rất nhanh chóng, vài bác sĩ khác nhảy vào phòng tôi, một hàng áo blu trắng làm tôi nhớ đến bài thơ Flanders Fields. Họ chiếu, chụp và lẩm bẩm gì đó đại loại như "Thật thú vị" và "Hừmmmm." (Dù có gì thực sự thú vị đi nữa, một bác sĩ không bao giờ, không bao giờ, được phép nói "Thú vị" với lại "Hừmmm" trước mặt bệnh nhân cả.) Thật nhanh gọn, đám bác sĩ thích lẩm bẩm này xác định rằng tôi bị viêm tụy nặng, tình hình nguy kịch đến nỗi rất nhiều mô tụy của tôi đã chết.
Quá trình hoại tử tụy có hai loại chính: không nhiễm trùng và nhiễm trùng. Loại của tôi là nhiễm trùng. Nếu không được phẫu thuật kịp thời, khả năng tôi không qua khỏi là khá cao. Thế là các bác sĩ nói với tôi rằng tôi không có nhiều lựa chọn ngoài việc loại bỏ, càng nhanh càng tốt, một lượng lớn mô tụy. Sao lại không làm theo chứ, tôi nhún vai. Sau năm giờ chẩn đoán, tôi được đưa lên xe đẩy vào phòng phẫu thuật. Bác sĩ gây mê bảo tôi đếm ngược từ mười. Tôi chỉ đếm đến sáu.
Bệnh nhân bỏng không được sử dụng loại thuốc gây mê thông thường, thay vào đó là thuốc gây mê ketamine - thường gây ảo giác. Trong một lần được gây mê, tôi đã có một ảo giác vô cùng dễ chịu, một món quà khuyến mãi bất ngờ cho một trải nghiệm lẽ ra thật tê tái. Tôi đang đứng nhìn ra biển, một phụ nữ Anh đáng yêu cạnh bên, và đối với một bệnh nhân bỏng còn gì tuyệt vời hơn giấc mơ về nước?
Tôi tỉnh dậy để tiếp nhận thông tin nửa số mô tụy của mình đã bị cắt bỏ. Thêm vào đó, bác sĩ phẫu thuật còn vốc một nắm đầy mô ruột bị tổn thương gần đó. Tôi nghĩ ông cho rằng vì đã mất công mổ phanh ra rồi nên tội gì mà không vơ vét hết. Từng chút từng chút một, tôi trở thành chất thải y tế. Ai mà biết được, có lẽ một ngày nào đó các bác sĩ sẽ khai thác cái mỏ lộ thiên của tôi cạn kiệt tới mức tôi chả còn gì ngoài hư vô nữa.
Marianne Engel đang ngồi đọc sách trên chiếc ghế trong góc phòng tôi, khoác trên người thứ gì đó trông rất nhếch nhác. Sau vài giây dụi mắt cho quen với ánh sáng, tôi nhận ra đó là bộ đồng phục dành cho khách thăm bệnh. Khi thấy tôi đã tỉnh, cô liền đi về phía tôi, cuốn sách cô đang đọc có nhan đề Non Omnis Moriar.(15)
"Sao cô lại ở đây?" Tôi đợi một câu trả lời sẽ vuốt ve cái tôi ngất ngưởng của mình.
"Tôi đến để nhìn anh chịu đau đớn."
"Cái gì?"
"Tôi ghen tị điều đó."
Quên cái bệnh tâm thần của cô ta đi: một nạn nhân bỏng sẽ không thể tha thứ cho người dám tuyên bố ghen tị với sự đau đớn của anh ta đâu. Tôi đấu tranh kịch liệt với màn sương thuốc gây mê của mình để tung ra cú phản đòn dữ dội. Tôi không thể nhớ chính xác mình đã nói những gì, nhưng chắc chắn chẳng nhẹ nhàng chút nào.
Khi hiểu ra những lời nói của mình xúc phạm tôi đến thế nào, cô cố giải thích. "Tôi ghen tị với tất cả những nỗi thống khổ, vì có thống khổ mới có một tâm hồn đẹp. Nó mang người ta đến gần Chúa hơn. Những người phải chịu đau khổ là những đứa con được Chúa lựa chọn."
"Thế sao cô không đi mà tự thiêu ấy," tôi nạt, "và thấy mình trở nên đẹp thế nào?"
"Tôi quá yếu đuối," cô trả lời, dường như không để ý tới lời mỉa mai của tôi. "Tôi không chỉ sợ lửa, tôi còn sợ mình sẽ chết mà không kịp trải qua hết mọi khổ đau."
Tác dụng của thuốc giảm đau lên não đã kéo tôi trở lại với bóng tối. Tôi cảm thấy rất hạnh phúc vì đã thoát khỏi cuộc trò chuyện này.
Loại bệnh chính xác mà Marianne Engel mắc phải vẫn còn mù mờ nhưng khi cô gợi ý "những người phải chịu đau khổ là những đứa con được Chúa lựa chọn", tôi nghĩ nhiều khả năng cô bị tâm thần phân liệt.
Những người mắc bệnh tâm thần phân liệt thường phải chịu đựng thời kỳ đặc biệt khó khăn về tôn giáo, vài bác sĩ còn giả định rằng điều này liên quan đến độ tuổi phát bệnh: hội chứng thường phát triển trong khoảng từ mười bảy đến hai lăm tuổi, giai đoạn nhiều người bắt đầu phải đối mặt với vấn đề tôn giáo tín ngưỡng của mình. Người tâm thần phân liệt thường trải qua những giai đoạn nhận thức cao - hay hoàn toàn rơi vào trạng thái ảo tưởng, ví dụ như ảo thanh - mà có thể làm họ tin rằng mình được Chúa đặc biệt chọn lựa. Tình hình trở nên tồi tệ hơn vì họ không hiểu được rằng biểu tượng tôn giáo chỉ mang tính ẩn dụ.
Thiên Chúa giáo được xây dựng trên quan niệm Chúa Jesus chết để gánh tội cho toàn nhân loại: để cứu chuộc chúng ta, Người đã bị tra tấn và bị đóng đinh trên cây thập giá. Một người tâm thần phân liệt, trong nỗ lực nắm bắt ý nghĩa câu chuyện, có thể sẽ lý giải như sau: Jesus là người con yêu dấu của Đức Chúa Cha, và Jesus đã phải chịu những đau đớn khủng khiếp, vì thế những người phải chịu những đau đớn khủng khiếp nhất chính là những đứa con được Chúa yêu thương nhất.
Có cả một truyền thống lâu đời những người cuồng tín tin rằng đau đớn sẽ mang con người lại gần với Đấng Cứu thế, nhưng một khuôn mặt người thật bao giờ cũng thuyết phục hơn lý thuyết suông. Vì lý do này, cho phép tôi được kể đôi chút về cuộc đời của một ông Heinrich Seuse, tu sĩ người Đức. Sinh năm 1295, Seuse đã trở thành một trong những biểu tượng tôn giáo quan trọng nhất thời bấy giờ, được biết đến như một Minnesanger - "ca sĩ hát về những tình yêu cao đẹp" - vì chất thơ tuyệt diệu trong những tác phẩm của ông.
Seuse vào nhà dòng Dominic tại Konstanz năm mười ba tuổi, và theo những ghi chép của chính ông, hoàn toàn không có gì bất thường trong suốt năm năm đầu của cuộc sống tôn giáo. Tuy nhiên, năm mười tám tuổi, ông đã bất ngờ gặp một ảo giác - một cảm giác thần tiên thoát tục mạnh mẽ khiến ông không còn chắc liệu linh hồn mình đã bị tách rời khỏi thân thể hay chưa. Ông xem trọng sự kiện này đến mức đã lấy đó mở đầu cho cuốn tự truyện đời mình, The Life of the Servant (Cuộc đời một bầy tôi của Chúa).
Vài học giả nhận xét Cuộc đời một bầy tôi của Chúa là cuốn tự truyện đầu tiên được viết bằng tiếng Đức, trong khi những vị khác cho rằng nó chả phải tự truyện gì sất. Rất nhiều đoạn văn bản được cho là công trình của Elsbeth Stagel, một phụ nữ trẻ đến từ tu viện Toss, cô con gái tinh thần được yêu quý nhất của Seuse. Có vẻ cô đã ghi lại nhiều cuộc đối thoại của họ để làm cơ sở cho cuốn Cuộc đời mà không thông qua Seuse, và khi phát hiện ra những gì cô làm, ông đã đốt một phần bản thảo trước khi "một thông điệp của Chúa" ra lệnh cho ông phải giữ phần còn lại. Không ai biết bao nhiêu phần của tác phẩm Cuộc đời được viết bởi Stagel và bao nhiêu bởi Seuse.
Tác phẩm Cuộc đời là câu chuyện kể hấp dẫn, cung cấp cho ta nhiều chi tiết tuyệt vời về những ảo giác Seuse mắc phải trong suốt cuộc đời: Chúa chỉ cho ông hình ảnh về Thiên đường, Địa ngục, nơi Chuộc tội, còn những linh hồn đã rời khỏi xác xuất hiện trước mặt ông và kể ông nghe những tin mới nhất về cuộc sống của họ ở thế giới bên kia. Câu chuyện mới hay và kịch tính làm sao! Nhưng đoạn đáng đọc nhất trong tác phẩm Cuộc đời là đoạn mà Seuse - hoặc Stagel - miêu tả quá trình ông tự tra tấn bản thân.
Là một người cuồng tín với quan niệm khoái lạc thể xác sẽ khiến tinh thần yếu nhược, Seuse tuyên bố ông đã không bước vào một căn phòng lắp lò sưởi nào trong vòng hai mươi lăm năm và rằng ông đã nhịn uống nước cho đến khi lưỡi nứt toác vì khô, phải mất cả năm trời mới lành lại được. Ông rất hạn chế ăn uống - chỉ ăn một lần trong ngày và không bao giờ ăn thịt, cá hay trứng - và trong một lần có ảo giác cơn thèm táo của mình còn mạnh hơn khao khát có được Trí tuệ Vĩnh hằng, để tự trừng phạt bản thân, ông đã sống hai năm mà không ăn trái cây. (Người ta băn khoăn không biết liệu ông có khi nào không ngộ ra giá trị đạo đức của câu chuyện và cứ tiếp tục ăn hoa quả ngoài đời thật - như để chống lại cái lệnh cấm ẩn dụ ấy - hay không.)
Ở phần thân dưới, Seuse mặc một cái khố có đóng một trăm năm chục chiếc đinh đồng sắc nhọn chĩa mũi vào trong, vào da mình. Ở phần thân trên, ông mặc một chiếc áo rơm cài xích sắt, dưới cái xích là cây thập tự giá bằng gỗ dài bằng một sải tay người đính thêm ba chục cái đinh đồng nữa. Kẹp chặt những thứ này vào xương bả vai, mỗi cử động - đặc biệt là lúc quỳ xuống cầu nguyện - đều làm những cái đinh nhọn đâm sâu vào da thịt ông, và sau đó ông sẽ bôi giấm lên vết thương. Seuse đeo cây thập giá tua tủa này trong vòng tám năm cho đến khi Chúa lên tiếng cấm ông tiếp tục.
Ông mặc bộ trang phục tra tấn này cả khi ngủ - trên một cánh cửa cũ. Khi nằm xuống ông thường còng tay chân mình lại bằng những chiếc vòng da vì nếu tay được tự do, ông sẽ xua những con chuột cứ chực cắn xé ông hàng đêm. Thỉnh thoảng ông làm đứt những cái vòng này trong lúc ngủ, thế là ông bắt đầu đeo găng tay da đính thêm nhiều đinh bấm bằng đồng sắc nhọn để giúp cạo da mình một cách hiệu quả như thể đang dùng bàn nạo pho mát. Seuse giữ thói quen này trong mười sáu năm cho đến khi nhận được một lời phán khác của Chúa bắt ông ném đống dụng cụ dỗ giấc này xuống một dòng sông gần đấy.
Thay vì làm Seuse cảm thấy thanh thản mỗi lần Chúa cấm ông tự trừng phạt bản thân, những can thiệp thần thánh này lại làm ông cảm thấy rất phiền muộn. Khi một nữ tu hỏi ông dạo này ra sao, Seuse trả lời rằng mọi chuyện thật tồi tệ vì một tháng nay ông không còn biết đến đau đớn nữa và ông sợ rằng Chúa đã bỏ rơi mình.
Những trừng phạt thể xác này, Seuse nhận ra, mới chỉ là sự bắt đầu: chúng chưa phải bằng chứng rõ ràng cho tình yêu vĩ đại của ông trước Chúa. Để bù đắp, một đêm ông cởi áo ra và dùng một cái kim châm được mài nhọn để khắc những chữ IHS vào phần thịt phía trên trái tim mình. (Nếu bạn không hiểu thì cũng đừng lo: IHS là tên viết tắt của Chúa trong tiếng Hy Lạp.) Máu tuôn ra khỏi chỗ thịt rách toác nhưng ông nói hầu như không thấy đau đớn gì, độ phê mới cao làm sao. Những chữ hiến tế không bao giờ mờ đi và ông thầm lặng mang vết thương trên mình cho đến cuối đời, nó xoa dịu ông trong những thời khắc khó khăn, ông tuyên bố thế, vì biết tên của Chúa Jesus đang chuyển động cùng với từng nhịp đập của trái tim mình.
Seuse mất năm 1366, một cuộc đời dằng dặc mà bạn chỉ có thể ngờ ngợ rằng nó hình như còn dài hơn cả thực tế ấy.
Tôi thấy việc Seuse được "khai sáng tâm hồn" lúc mười tám tuổi, chính là khi bệnh tâm thần phân liệt ở vào giai đoạn dễ phát tác nhất, thật thú vị. Nếu mắc chứng này, bạn có thể làm nhiều điều tồi tệ hơn nữa trong cuộc sống tôn giáo ở Đức thế kỷ mười bốn. Trong Thời kỳ Thần bí, khả năng ngoại cảm của bạn không bị khiếp sợ mà còn được tôn kính. Nếu bạn đánh đập bản thân vô tội vạ, thì không phải bạn đang tự hành hạ mình mà là đang học tập Chúa. Nếu nghe thấy những giọng nói kỳ lạ, nghĩa là bạn đã có khả năng liên lạc trực tiếp với Chúa rồi.
Nhưng trong tất cả những điều trên, có một sự kiện trong cuộc đời Heinrich Seuse làm tôi cảm thấy đặc biệt hấp dẫn, dù đó là điều tôi chưa bao giờ có khả năng xác nhận lại trong thư viện nghiên cứu của mình.
Marianne Engel cứ khăng khăng bảo với tôi là, từ xửa từ xưa, cô đã gặp ông ta rồi.
Khi tôi tỉnh lại, Marianne Engel đã đi khỏi, nhưng cô để lại một món quà trên chiếc tủ đầu giường, một gargoyle nhỏ bằng đá.
Tôi xoay cái vật quái dị nhỏ bé ấy trên tay. Cao khoảng mười lăm phân, gargoyle trông như một sinh vật lùn tịt nửa người nửa quỷ, có màu của một đám mây đen ảm đạm. Cái bụng bự của nó thõng xuống đôi chân vắt tréo, hai khuỷu tay chống lên đầu gối, cằm tựa vào đôi bàn tay chỉ có ba ngón. Lưng nó mọc ra một đôi cánh dày và ngắn ngun ngủn, có vẻ để phô trương hơn là để bay. Cái đầu to bè đặt trên đôi vai rụt như một tảng đá chỉ chực bị đẩy khỏi đỉnh vách đá. Nó có cặp mắt to đùng thấp thoáng sau đôi lông mày rậm rạp như của người tiền sử Neanderthal, thêm một cái mồm lởm chởm răng. Gargoyle dường như đang cố hết sức để quắc mắt hăm dọa, nhưng có vẻ nó chưa đủ sức. Nét mặt nó vừa thân thiện vừa buồn bã và không hiểu sao, trông rất người, như nét mặt của một người đàn ông cô đơn đã dành cả đời lê từ tai nạn này đến tai nạn khác cho tới khi cái hậu quả chồng chất vùi dập anh ta dưới sức nặng của những ngôn từ anh ta không thể thốt ra.
Tình trạng sức khỏe của tôi cải thiện trông thấy trong những ngày hậu phẫu. Chiếc sà lan chở rác là bụng tôi đây bắt đầu học cách nổi trở lại, dù nó không còn chở được nhiều như trước nữa. Chân phải của tôi, với đầu gối tả tơi và cái hông bầm giập, cũng bắt đầu lành lại, và các bác sĩ hứa sẽ nhanh chóng tháo lũ nhện máy ra cho tôi. Mỗi ngày, tôi dường như cảm thấy đỡ bất tiện hơn khi nằm trên chiếc giường xương.
Nan huých nhẹ tôi rồi viết vài dòng ghi chú lên biểu đồ của tôi. Bà luôn rất chuyên nghiệp, nhưng tôi nhận thấy mình gọi bà là Nan nhiều hơn là bác sĩ Edwards. Tôi không biết liệu bà có khó chịu với biểu hiện thân mật này không nhưng bà chưa bao giờ bắt tôi thôi cả. Tôi nghĩ điều này làm mình thêm bạo dạn và trong một thoáng tò mò, tôi hỏi bà đã kết hôn chưa. Bà hơi do dự rồi định trả lời, nhưng cuối cùng quyết định không nói gì.
Chỗ ngồi bên cạnh chiếc giường xương của tôi vẫn để trống, dành cho những chuyến thăm nom của các cô y tá và Nan. Một ngày không có Marianne trở thành hai ngày không có Marianne, hai trở thành ba, rồi năm ngày không có Marianne, cho tới khi tất cả cộng lại thành một tuần không có Marianne. Tôi muốn hỏi cô về cái tượng gargoyle nhỏ, vì sao cô lại đưa nó cho tôi, nó có ý nghĩa gì.
Tôi đọc rất nhiều sách, hầu hết là những bí mật của luật sư mà tôi chẳng hứng thú mấy. Tôi cần cái gì đó thay thế, và thế là tôi hỏi mượn Nan vài cuốn sách về những hiện tượng tâm lý bất thường. "Chị hẳn phải có sách gì đó về tâm thần phân liệt, khủng hoảng tinh thần, rối loạn lưỡng cực, hay cái gì đại loại chứ?"
"Đó không phải lĩnh vực chuyên môn của tôi," bà trả lời. "Hơn nữa, anh nên đọc các sách nói về bỏng ấy."
Nan đã mang hàng chồng sách về hồi phục sau bỏng đến để trên chiếc tủ đầu giường mà tôi chả sờ tới lần nào. Tôi không đọc chúng vì chúng là thứ sách tôi nên đọc. Chúng tôi thỏa thuận: cứ mỗi cuốn sách tâm lý bà mang đến, tôi sẽ đọc một trong những cuốn sách về bỏng. Nan xem đây là thắng lợi và kiên quyết đòi tôi phải đọc một trong những cuốn của bà trước.
Sau khi tôi đã đọc xong một cuốn sách về bỏng, Gregor đến phòng tôi, lại mặc cái quần nhung tăm cứ cọ vào hai đùi, mang trên tay một cuốn sách tâm lý học. Ông ta trao nó cho tôi và nói rằng bác sĩ Edwards đã nhờ ông ta mang đến, từ bộ sưu tập riêng trong văn phòng ông ta.
"Chỗ này không làm anh phát điên đấy chứ, hả?" Cái cách ông ta cười khùng khục một mình khiến tôi tự hỏi không biết có phải ông ta đã nghĩ về chuyện đó suốt từ khoa tâm thần đến đây không. Khi tôi hỏi ông ta liệu một bác sĩ tâm thần có được phép gọi bệnh nhân của mình là thằng điên không, ông ta lau vội một giọt mồ hôi rỏ ra từ chân mày bằng chiếc khăn tay kẻ ca rô, và chẳng trả lời gì cả. Thay vì thế, ông ta hỏi tôi tại sao lại hứng thú với tâm thần phân liệt và khủng hoảng tinh thần đến vậy.
"Không phải việc của ông," tôi nói.
Gregor mở miệng như thể định nói gì nữa, nhưng ông ta lại chỉ mỉm cười và gõ một phát lên đầu gargoyle nhỏ của tôi. "Tôi thích cái này," ông ta nói, trước khi lạch bạch chạy ra khỏi phòng trên đôi giày moca.
Ngày hôm sau, một phụ nữ châu Á nhỏ bé, mới liếc qua trông giống một con búp bê hơn là người thật, bước vào phòng tôi.
Xin đừng vội kết luận tôi đang cố tô đậm thêm định kiến rằng tất cả phụ nữ châu Á đều trông giống búp bê sứ. Đó không phải loại búp bê tôi nghĩ trong đầu. Người phụ nữ này có khuôn mặt bè bè, mũi tẹt và nụ cười đáng kinh ngạc. (Tôi luôn ghét những người cười hết cỡ mà trông không có vẻ ngu ngốc.) Má cô như hai quả táo chín, mà khi kèm với chiếc áo kẻ sọc và quần bò yếm bên dưới lần áo thăm bệnh, tạo nên ấn tượng tổng thể về cô búp bê Raggedy Ann(16) đến từ phương Đông.
"Xin chào! Tôi tên là Sayuri Mizumoto. Rất hân hạnh được gặp anh." Cô thọc tay vào tay tôi và bắt tay cuồng nhiệt. Và nếu như tôi không viết rằng cứ mỗi khi nói, cô lại cười toe toét, thì từ đây xin hãy coi chuyện cô cười là đương nhiên nhé.
"Sayuri là cái tên quái gì vậy?"
"Một cái tên đẹp," cô trả lời bằng giọng Úc. "Giờ hãy ngồi dậy đi nào."
Tôi hỏi tại sao cô lại mong tôi sẽ làm theo những gì cô bảo.
"Vì tôi là bác sĩ vật lý trị liệu mới của anh và bây giờ anh sẽ phải ngồi dậy."
"Cô thậm chí còn không biết..."
"Tôi đã nói chuyện với bác sĩ Edwards, và anh có thể làm được điều đó!" Có một kết hợp kỳ lạ giữa vui sướng và tự hào trong cách cô nói với tôi rằng tôi có thể làm được điều đó! Cô luồn tay xuống dưới lưng tôi rồi đứng choãi chân ra để giúp tôi. Cô cảnh báo rằng tôi có thể cảm thấy chóng mặt một chút khi máu lên não, còn tôi cứ cự nự đây chắc chắn không phải một ý hay.
"Chắc chắn là ý hay đấy," cô vui vẻ nói. "Nào, một, hai, được rồi!"
Tôi ngồi lên; cô khá khỏe so với một con búp bê đấy. Trong một thoáng tôi cảm thấy khá thoải mái, tay cô đang đỡ tôi. Rồi cơn chóng mặt ập đến và cả căn phòng bắt đầu xoay tròn kỳ lạ. Sayuri đặt một tay lên gáy tôi để giúp đầu tôi không bị ngúc ngắc. "Anh làm rất tốt! Giữ yên nào."
Khi đỡ tôi nằm xuống, cô nhận xét, "Không quá tệ, phải không?"
"Tệ kinh lên được."
"Sốc quá!" Cô lấy tay che cái miệng đang há hốc ra, giả vờ sợ hãi.
"Anh đúng là không khác gì người ta vẫn nói. Chưa có ai nói với anh miệng là cánh cổng chính dẫn đến mọi bất hạnh à?"
Khi tôi tỉnh dậy sau giấc ngủ trưa, Marianne Engel đang đứng trước tôi, rèm đã được kéo lại. Vắt trên thành ghế cạnh giường tôi là một bộ đồng phục thăm bệnh, mà sau đó tôi phát hiện ra đã được cô mặc khi vào phòng nhằm xoa dịu các y tá tình cờ gặp phải, rồi nhanh chóng bị cởi phăng ra. Thế là cô lại mặc bộ quần áo đường phố của mình: áo sơ mi trắng tay bồng nhét trong quần jean bạc màu với dây lưng đính những đĩa bạc nhỏ. Mái tóc thả hờ hững trên bờ vai, chảy dài xuống phía lưng. Khuôn mặt cô rất bình thản còn đôi mắt thì sáng bừng - sắc xanh lục, xanh kinh khủng. Một con rồng thêu nằm trên ống quần bên phải.
Cuối cùng tôi biết mình đã đúng khi đoán rằng thân hình của Marianne Engel khá bắt mắt. Có vẻ con rồng cũng nghĩ thế, vì nó bò từ mắt cá chân lên đến hông, xoắn quanh và âu yếm ôm lấy đùi cô. Mỗi cái vảy là một hạt xê quin đầy màu sắc, đôi mắt màu hồng ngọc được làm từ những viên giả đá quý to tướng. Cái lưỡi xoắn xuýt thè ra tinh nghịch liếm mông cô. Những móng vuốt thêu bằng chỉ đen, cắm ngập vào phần thịt ngon lành trên chân cô. "Tôi thích quần của cô," tôi nói. "Cô đã ở đâu vậy?"
"Tôi bận," cô trả lời. "Chiếc quần này tôi được tặng."
"Làm gì? Ai tặng?"
"Làm việc, nhưng rồi bị ốm nhẹ." Cô kéo cái ghế cạnh giường rồi ngồi xuống. "Jack tặng quần cho tôi."
"Rất tiếc khi biết cô không được khỏe. Jack là ai?"
"Tôi đỡ rồi. Ghen à?"
"Rất vui khi nghe thế. Hôm nay cô không lẩn trốn các bác sĩ đấy chứ?"
"Không. Ghen à?"
"Với Jack á?" Dào ôi. "Cô hòa thuận với họ quá nhỉ?"
"Chẳng đến mức ấy đâu. Chẳng muốn nói về chuyện đó."
"Các bác sĩ hay là Jack?"
"Các bác sĩ," cô trả lời. "Anh muốn nói về Jack à?"
"Dĩ nhiên là không. Đời sống riêng tư của cô là riêng tư chứ, nhỉ?"
"Một mối quan hệ khá phức tạp."
"Với Jack?"
"Với các bác sĩ." Marianne Engel gõ đầu ngón tay lên đôi mắt cẩn đá quý của con rồng thêu trên quần. "Nhưng với bác sĩ Edwards thì có vẻ ổn, tôi đoán thế."
"Ồ. Thế là cô đã hoàn toàn khỏi bệnh, gì gì ấy nhỉ?"
"Bị suy nhược, có thể nói như thế." Cô ngả đầu sang một bên. "Kể cho tôi nghe về tai nạn của anh đi."
"Tôi phê thuốc, rồi lái xe lao xuống vực."
"Gieo gió gặt bão."
Tôi chỉ vào bức tượng nhỏ trên chiếc tủ đầu giường. "Tôi thích gargoyle này."
"Nó không phải gargoyle. Mà là grotesque ."
"Ông nói gà, bà nói vịt."
"Tôi sẽ không ngừng ăn gà đâu." Marianne Engel trả lời, "nhưng đó là grotesque. Gargoyle là máng xối."
"Mọi người đều gọi cái này là gargoyle(17) ."
"Mọi người đều sai." Cô rút một điếu thuốc lá ra khỏi bao, không châm lửa mà bắt đầu cuộn nó lại giữa ngón cái và ngón trỏ. "Gargoyle được tạc trên tường thánh đường để tiêu thoát nước, giúp móng nhà không bị xói lở. Người Đức gọi chúng là Wasserspeier. Anh có nhớ không?"
"Nhớ gì cơ?"
"'Ống khạc nước.' Nghĩa đen là thế."
"Sao cô biết nhiều về mấy thứ ấy thế?"
"Grotesque hay ngôn ngữ?"
"Cả hai."
"Grotesque là những thứ tôi làm," Marianne Engel đáp. "Ngôn ngữ là sở thích."
"Cô muốn nói gì, cô 'làm' grotesque?"
"Tôi tạc tượng." Cô hất đầu về con quỷ lùn trong tay tôi. "Tôi tạc cái ấy."
"Ông bác sĩ tâm lý của tôi thích nó."
"Lão nào vậy?"
"Bác sĩ Hnatiuk."
"Ông ta khá hơn hết thảy lũ còn lại."
Tôi hơi ngạc nhiên. "Cô biết ông ta à?"
"Tôi biết hầu hết mấy người ấy."
"Nói tôi nghe việc chạm khắc của cô đi."
"Tôi bắt đầu hứng thú với việc này khi quan sát anh làm." Bàn tay kia của cô vân vê cái vòng cổ mặt hình đầu mũi tên.
"Tôi không tạc tượng."
"Anh đã từng."
"Không, tôi chưa tạc bao giờ," tôi nhấn mạnh. "Nói cho tôi biết tại sao cô thích tạc tượng đi."
"Đây là nghệ thuật thụt lùi. Lãi thu về còn ít hơn cả vốn." Cô dừng lại. "Thật tệ khi anh không nhớ rằng mình biết chạm khắc. Tôi vẫn còn giữ một thứ anh đã làm đấy."
"Cái gì vậy?"
"Morgengabe của tôi." Marianne Engel nhìn tôi chăm chú, như thể đang trông đợi một ký ức không hề tồn tại lướt qua trí óc tôi. Khi nhận thấy chẳng có gì xảy ra cả, cô nhún vai và ngả người vào ghế. "Jack là quản lý của tôi."
Một người quen trong công việc. Tốt. "Kể cho tôi nghe về anh ta đi."
"Tôi nghĩ sẽ để anh tự đoán." Hôm nay cô hẳn rất hưng phấn. "Tôi kể anh nghe một câu chuyện nhé?"
"Lần này là về cái gì vậy?"
"Về tôi."
Chú thích
(12) Trong thần thoại Hy Lạp, dưới Trời, Đất, Biển là Tartarus, một chốn sâu thẳm, tối tăm, nơi những linh hồn tội lỗi phải chịu đày đọa và trừng phạt.
(13) Lạy chú phù hộ (Tiếng Latin)
(14) Chimera: quái vật đầu sư tử, mình dê, đuôi rắn trong thần thoại Hy Lạp.
(15)Tôi sẽ không chết hẳn(Tiếng Latin)
(16)Nhân vật trong loạt sách thiếu nhi của nhà văn Mỹ Johnny Gruelle, là một cô búp bê rách rưới với mái tóc làm bằng sợi màu đỏ và cái mũi tam giác.
(17)Những bức tượng được chạm khắc kỳ dị theo phong cách Gothic, chỉ có tác dụng trang trí, không có chức năng tiêu thoát nước.
- Chương 1
- Chương 2
- Chương 3
- Chương 4
- Chương 5
- Chương 6
- Chương 7
- Chương 8
- Chương 9
- Chương 10
- Chương 11
- Chương 12
- Chương 13
- Chương 14
- Chương 15
- Chương 16
- Chương 17
- Chương 18
- Chương 19
- Chương 20
- Chương 21
- Chương 22
- Chương 23
- Chương 24
- Chương 25
- Chương 26
- Chương 27
- Chương 28
- Chương 29
- Chương 30
- Chương 31
- Chương 32
- Chương 33 - Hết