Chương 5
Khi quá cảnh tại sân bay Miami, cô chạy thật nhanh để khỏi lỡ chuyến bay. Đám người đi lại lộn xộn trong hành lang khiến cô di chuyển thật khó khăn, túi hành lý quá nặng, cô đột ngột cảm thấy một cơn chóng mặt mới và phải dừng lại. Cô lấy lại hơi và tiếp tục đi về hướng cửa lên máy bay, nhưng đã quá trễ. Cô đành đứng nhìn theo chiếc máy bay của mình đang cất cánh.
Philip nhìn qua cửa sổ chiếc xe bus đang đưa anh ra sân bay Newark. Anh đặt cuốn sổ gáy xoắn lên đầu gối. Cô gái trẻ bên cạnh anh ngồi quan sát anh dùng cây bút chì đen phác nên gương mặt của một người phụ nữ.
Cô lên chiếc máy bay kế tiếp, hai giờ sau đó. Bay phía trên các đám mây, cô chỉ còn cảm thấy buồn nôn; cô đẩy khay đồ ăn qua một bên và cố gắng chợp mắt.
Quán trống trải như vẫn thường thấy vào cuối giờ sáng, trừ khi có những hội nghị diễn ra hoặc thời điểm người ta đi du lịch. Anh ngồi vào bàn của mình. Sau giờ ăn trưa, quán lại trở nên vắng lặng, và người phục vụ ca chiều đến thay cho người ca sáng. Anh ta nhận ra Philip ngay lập tức và chào anh. Philip đến ngồi phía trước, vừa nghe anh ta nói chuyện vừa bắt đầu một bức vẽ mới phác hoạ quanh cảnh quán bar, bức thứ sáu trong cuốn sổ của anh, không kể bức mà anh đang treo phía trên bàn làm việc trong phòng của mình ở Manhattan. Khi bức vẽ đã xong, anh chìa cho người phục vụ xem, anh này cởi chiếc áo vest trắng ra và đưa cho anh; Philip cầm ngay lấy mặc lên người với vẻ thông đồng khoái chí. Họ đổi chỗ cho nhau, anh phục vụ đến ngồi trên chiếc ghế đẩu, khoan khoái rít điếu thuốc trong khi Philip kể cho anh ta nghe về năm vừa trôi qua.
Trong suốt thời gian này, nơi chiếc bàn nằm sát cửa kính, hai chiếc ghế được đặt quay lưng lại để không ai ngồi vào được. Susan đến bằng chuyến bay hạ cánh lúc 21giờ.
- Làm thế nào mà lần nào anh cũng có được chiếc bàn này?
- Trước hết, lần đầu tiên, em đã yêu cầu anh điều đó, và kế đến, cũng phải có một ít tài năng nữa! Anh đã ở đây đợi em từ chuyến bay trước. Tuy nhiên, cũng phải nói là thật kì lạ, chưa bao giờ anh nhìn thấy bàn này đã có người ngồi.
- Mọi người đều biết nó dành cho anh và em.
- Chúng ta sẽ nói về các vấn đề thể xác hay tinh thần trước?
- Năm nay em thay đổi nhiều đến thế à?
- Không, em có vẻ mặt của một người vừa đi một chuyến xa, thế thôi.
Người phục vụ đặt ly kem như mọi lần lên bàn, Susan mỉn cười và kín đáo đẩy nó ra xa.
- Anh thì nhìn rất tươi, kể cho em nghe về anh nào.
- Em không ăn kem à?
- Em hơi buồn nôn, chuyến bay thật tệ, và em đã rất sợ, máy bay bị hỏng mất một động cơ.
- Thế rồi sao? Anh hỏi vẻ lo lắng.
- Thì anh thấy đấy, em đã ở đây rồi, cuối cùng người ta đã khởi động lại được.
- Em có muốn ăn gì khác không?
- Không, em chẳng muốn ăn gì, em thực sự không đói. Năm vừa rồi anh không viết nhiều cho em.
- Em cũng vậy.
- Nhưng em, em có lý do của em.
- Lý do gì?
- Em không biết, anh luôn luôn nói là em tìm ra đủ thứ lý do, thỉnh thoảng em cũng phải sử dụng đến cái đống lý do đó chứ.
- Những cái cớ, từ mà anh đã dùng là những cái cớ! Có cái gì không ổn sao? Anh phải gặng hỏi từng từ nữa à?
- Chẳng gì cả, mọi cái đều ổn. Còn công việc của anh thì sao?
- Cứ theo đà này, muộn nhất là sau một năm nữa anh sẽ được vào vị trí giám đốc. Năm nay bọn anh đã thực hiện những chiến dịch quảng cáo rất tuyệt vời, và có thể anh sẽ nhận được một giải thưởng. Hiện có ba trong số những thiết kế của anh đang được đăng trên các tạp chí dành cho phụ nữ. Một hãng thời trang cao cấp của Pháp đã liên lạc với anh, họ chỉ muốn làm việc với anh, vì vậy càng ngày anh càng có uy tín tại công ty.
- Thật tuyệt, em tự hào về anh. Anh có vẻ rất hạnh phúc.
- Còn em, em có vẻ rất mệt mỏi Susan, em không bị ốm đấy chứ?
- Không, em thề với anh đấy, không có đến cả một con amip nhỏ nữa. Mà đúng rồi, anh thì hiện nay đang có một con "amip" nhỏ đúng không?
- Đừng có bắt đầu như vậy chứ! Đúng, và cô ấy tên là Mary.
- Ừ nhỉ! Đúng rồi, em quên béng mất tên của cô ấy!
- Em đừng làm vẻ mặt khinh thường người khác như vậy. Anh rất hạnh phúc với cô ấy. Bọn anh có cùng sở thích về sách, về các món ăn, về phim ảnh, bọn anh đang bắt đầu có những người bạn chung.
Susan thoáng nở một nụ cười ranh mãnh.
- Thế thì tệ quá, và hơn nữa, nó có vẻ giống với một mối quan hệ nho nhỏ được xã hội công nhận rồi, thật là hấp dẫn!
Cô nhướn lông mày và ghé mặt lại sát mặt anh, như để cho thấy cô đang đặc biệt chú ý đến những lời mình nói, và không khỏi để lộ một vẻ giễu cợt.
- Anh biết em nghĩ gì, Susan, có thể nó không giống như một tình yêu đam mê, nhưng ít ra thì nó không làm cho người ta đau đớn. Con tim anh không bị đè nặng suốt cả ngày vì sự vắng mặt của cô ấy, bởi vì anh biết rằng buổi tối anh sẽ gặp lại cô ấy. Anh không nhìn vào điện thoại suốt cả buổi chiều và tự hỏi ai trong hai người đã gọi điện lần gần nhất. Anh không phải lo lắng mình đã sai lầm khi chọn nhà hàng hay trong cách ăn mặc, hay nói điều gì đó có thể khiến cho cô ấy vĩnh viễn giữ một định kiến. Khi ngủ bên cô ấy, mỗi buổi sáng thức dậy, anh không phải lo thắt lòng bởi anh biết khi mở mắt ra, anh sẽ nhìn thấy cô ấy nằm gọn trong lòng anh. Anh không sống trong sự chờ đợi, anh sống trong thời khắc hiện tại. Cô ấy yêu anh, yêu con người như vốn có của anh. Có thể cái đang gắn kết anh và cô ấy chưa phải là một tình yêu cháy bỏng, nhưng đó là một mối quan hệ rất con người. Mary chia sẻ với anh những điều bình thường diễn ra hàng ngày trong cuộc sống của cô ấy, và quan hệ của bọn anh được xây đắp, nó tồn tại thực sự.
- Và... pằng, ráng mà nhận lấy, cô em!
- Anh không nói những điều này để trách cứ em đâu!
- Cái ngày mà anh nhắm vào em, cho em biết trước nhé, vì chưa cần cố tình nhắm mà anh đã làm tốt đến thế, em không dám tưởng tượng trước những gì anh có thể làm nếu thêm một chút chủ ý. Anh nói thật hay về cô ấy. Thế tiếp theo sẽ là gì?
Vì đã đưa mắt nhìn xuống, Philip đã không nhìn thấy một thoáng buồn sâu thẳm trong ánh mắt của Susan khi anh tuyên bố đang dự định cưới Mary, vì anh đã đưa mắt nhìn xuống. Susan đưa mu bàn tay xoá đi nét buồn trong mắt.
- Em mừng cho anh, em hơi nhói đau trong tim vì ý nghĩ phải chia sẻ anh với người khác, nhưng em mừng cho anh một cách chân thành.
- Còn em, có gì mới trong cuộc sống của em?
- Chẳng có gì cả, chẳng có gì mới. Cuộc sống vẫn trôi đi như vậy, có vẻ hơi ngược đời. Nhìn từ thế giới này, mọi sự kiện ở nơi đó đều có vẻ đặc biệt, nhưng nhìn từ nơi em sống, tất cả đã là một phần của cuộc sống hàng ngày. Giữa một đứa trẻ được sinh ra và một người chết đi, có rất nhiều người cần phải nuôi, chỉ có vậy thôi. Em phải đi đây. Anh biết đấy, em đã bị lỡ chuyến bay mà em định đi và chuyến bay sắp khởi hành đi Washington trong nửa giờ nữa là chuyến cuối cùng, em đã đăng kí hành lý trên chuyến đó.
- Em đừng nói dối. Chẳng bao giờ em đi trên máy bay mà chỉ với chiếc túi này, em không muốn ở lại đêm nay sao?
- Không, sáng mai em có hẹn ở đó lúc 7 giờ.
Anh tính tiền. Khi đứng lên, anh nhìn kem đã chảy ra trong ly. Những màu sắc khác nhau đã trộn lẫn lộn và những lát hạnh nhân đã chìm xuống đáy ly. Anh choàng một tay qua vai cô và họ đi về phía cửa lên máy bay.
Vào lúc phải nói lời tạm biệt, anh nhìn thẳng vào mắt cô.
- Em chắc là em vẫn ổn chứ, Susan?
- Đương nhiên rồi, em chỉ kiệt sức một chút, có thế thôi, mà anh thôi đi, nếu không em sẽ mất hai giờ ngắm nghía trong gương để tìm xem có cái gì không ổn trên mặt.
- Em đã viết cho anh là em muốn nói với anh điều gì đó rất quan trọng cơ mà?
- Em không nhớ đã nói vậy, Philip, mà dù sao, chuyện đó cũng không quan trọng đến thế đâu bởi vì anh thấy đấy, bây giờ, em cũng chẳng còn nhớ chuyện đó là gì nữa.
Cô chìa vé cho người tiếp viên, quay lại để nhào vào vòng tay anh. Cô khẽ đặt đôi môi mình lên môi anh. Không nói một lời, cô đi về phía hang lang dẫn lên máy bay. Philip nhìn theo cô và hét to lên:
- Last call!
Cô đứng khựng lại, và chậm rãi quay người. Một nụ cười kiêu hãnh sáng lên trên gương mặt cô. Cô chậm rãi bước ngược trở lại về phía anh. Khi còn cách anh vài mét, cô hỏi gặng.
- Anh muốn nói gì với câu "last call" của anh?
- Em hiểu rất rõ anh muốn nói gì, Susan!
Cô khoát tay ra hiệu một cách cương quyết với cô tiếp viên vừa thoáng có chỉ định cản không cho cô bước qua cái quầy đang ngăn cách giữa họ. Cô đến bên, ghé sát vào mặt Philip và, bằng một giọng say sưa vì giận dữ, cô thì thầm nói với anh:
- Anh biết là em làm gì với cái "last call" của anh không, anh yêu! Anh là người đang nhận lấy cái rủi ro ình đó, không phải em đâu!
Đất nước bị khuấy động mạnh mẽ vì bạo lực leo thang ở nước láng giềng Nicaragua. Ở trong nước, người ta lo lắng vì có tin đồn cuộc nổi loạn của các nhóm vũ trang Sandiniste! Có thể tràn qua biên giới. Đất nước nghèo nhất của khu vực Trung Mỹ này khó lòng kham nổi thêm một tai họa mới. Sự hiện diện của các nhân viên Peace Corps khiến cho người dân yên tâm phần nào. Nếu có chuyện gì nghiêm trọng đang xảy ra, hẳn Washington đã phải rút họ về nước. Mùa đông ở đất nước Honduras đang đến, cùng với những làn sóng huỷ diệt. Những gì còn chưa được sửa chữa hay gia cố đều biến mất dưới những trận mưa như trút nước và những cơn gió bão khinh hoàng. Susan chiến đấu chống lại sự mệt mỏi về thể chất đang choán lấy cô từng ngày. Kết quả khám sức khoẻ của cô hoàn toàn bình thường nhưng tâm hồn cô thì đầy mưa bão.
Giữa tháng Mười một, Philip đưa Mary đi nghỉ cuối tuần trên hòn đao Mrrtha's Vineyard. Họ cùng nhau thả bộ vào lúc hoàng hôn, con đường dài dẫn bước họ đến bên bờ đại dương, vào đúng lúc những con cá voi bơi ra ngoài khơi. Họ ngồi xuống trên bãi cát, ôm nhau và ngắm nhìn cảnh vật. Khi trời tối hẳn, những đám mây tụ lại trên bầu trời ngay phía trên đầu khiến cho họ quyết định nhanh chóng quay trở về phía nhà nghỉ.
Dưới những tia chớp và những tiếng sấm xé toang bầu trời phía trên mái nhà, Susan nằm một mình và trằn trọc mãi, giấc ngủ không chịu đến với cô nữa.
Ba tuần sau, đầu tháng Mười hai, lệnh giới nghiêm được huỷ bỏ tại nước láng giềng Nicaragua và cả đất nước Honduras thở phào.
Vào dịp Noel, Philip và Mary đi nghỉ ở Braxin. Ở độ cao 10.000 mét, anh áp sát mặt vào chiếc cửa sổ nhỏ, cố gắng tưởng tượng ra một dải bờ biển đươc vẽ nên dưới tấm màn mây. Đâu đó phía dưới cánh máy bay, trong một ngôi nhà nhỏ với mái lợp bằng tôn, Susan nằm liệt trên giường đêm Giáng sinh và suốt hai mươi ngày tiếp sau đó.
Mặt trời quay trở lại cùng với những ngày đầu tháng Hai. Và ánh nắng rạng rỡ cũng chiếu rọi đến khoảng trời trong lòng cô. Susan đã dậy khỏi giường và đi lại được từ tám ngày nay, cơ thể của cô đang dần dần lấy lại sức sống. Má cô đã hồng hào trở lại. "Căn bệnh vì mệt mỏi" của cô, nói theo cách gọi của dân làng, cũng có mặt tốt của nó. Những người nông dân đã thay cô quản lý kho, một vài phụ nữ trong làng cũng giúp cô duy trì hoạt động của trường học và trạm xá, thanh niên trong làng thay phiên nhau lo việc đi phân phát lương thực mà hàng ngày Susan vẫn làm. Thời gian gần đây, tất cả mọi người đều có mặt bên cô và quan hệ của họ ngày càng trở nên gắn bó. Cô đang thả bộ trên con đường chính và vừa đi ngang qua trước cửa nhà trẻ, cô gặp người đưa thư. Anh ta tiến lại phía cô. Lá thư được gửi từ Manhattan ngày 30 tháng Giêng, nó đã mất hai tuần để đến được tới tay cô.
Ngày 29 tháng Giêng năm 1979,
Susan,
Anh vừa trở về từ Rio và anh đã ngang qua phía trên đất nước của em hai lần. Anh đã tưởng tượng rằng bọn anh bay phía trên ngôi nhà của em và rằng anh có thể nhìn thấy em đứng trước cửa nhà. Có thể nào anh lại chưa một lần đến nơi đó thăm em? Có thể đơn giản bởi vì anh chưa bao giờ có được sự dũng cảm ấy. Dù đối với em điều đó có thể rất lạ lùng, em, người ở thật xa nhưng cũng luôn thật gần đối với anh, em là người đầu tiên (anh suýt nữa đã viết người đầu tiên trong gia đình) mà anh muốn được chia sẻ những dòng chữ này. Anh sẽ cưới Mary, buổi tối đêm Giáng sinh vừa rồi anh đã cầu hôn cô ấy.
Lễ cưới sẽ được tổ chức tại Montclair ngày 2 tháng Bảy, hãy đến nhé, anh xin em đấy. Còn sáu tháng nữa, em có đủ thời gian để thu xếp công việc, lần này không có lý do hay viện cớ thoái thác gì hết, hãy đến nhé, anh cần có em ở bên anh, em là những gì quý giá nhất mà anh có trên đời, anh trông đợi ở em đấy. Anh hôn em thật nhiều như anh vẫn yêu em.
Philip.
Cô cẩn thẩn gấp lá thư lại và bỏ nó vào trong túi áo blu. Cô ngước mặt lên trời, đôi môi cô trắng nhợt vì mím quá mạnh. Cô tiếp tục bước đi trên phố và chầm chậm bước vào nhà trẻ.
Một lần nữa cô lộn tung chiếc tủ quần áo duy nhất của mình lên để chọn bộ đồ mà cô muốn mang đến Montclair; còn chiếc nơ bướm này ít ra cũng đã là chiếc thứ hai mươi mà người bán hàng giới thiệu với Philip.
Anh đi ra, cánh cửa nhà đóng lại sau lưng, phía sau lưng anh cánh cửa tiệm may khép lại; tay bê một chiếc hộp cáctông lớn, anh mang bộ đồ chú rể của mình về nhà.
Một người dân làng chở cô ra sân bay nhỏ nơi một chiếc phi cơ đưa cô đến Tegucigalpa. Cánh máy bay có màu đỏ và trắng hay màu gì khác cũng không hề gì, bấy nhiêu nước đã chảy qua dưới những chiếc cầu Honduras kia mà; Jonathan, người đồng nghiệp mà anh chọn làm phù rể đi cùng với anh đến tiệm làm tóc.
Qua ô cửa tròn trên máy bay, cô ngắm một dòng sông đang lấp lánh đằng xa; qua cửa sổ chiếc Buick, anh nhìn những người đi đường đang rảo bước trên những con phố của Montclair.
Tại giáo đường, anh nôn nóng sải bước trên những bậc thềm trong khi chờ người đến báo cho anh biết tình hình chuẩn bị mọi việc; nơi nhà ga sân bay Tegucigalpa, máy bay sẽ khởi hành chậm bốn tiếng so với dự kiến.
Theo truyền thống, tối hôm trước ngày lễ cưới, anh không gặp Mary, Jonathan để anh xuống khách sạn Grand Hotel, nơi bố mẹ đã đặt cho anh một phòng lớn hạng sang; cô đã ngồi vào chỗ của mình và chiếc phi cơ đã bắt đầu xé gió bay đi.
Trong máy bay, cô dùng bữa tối với khay đồ ăn được mang tới; anh muốn đi ngủ sớm, anh ngồi trên giường ăn một bữa tối đơn giản.
Cô tới Miami và nằm ngả lưng trên chiếc ghế băng tại nhà ga sân bay, khu vực hãng Eastern Airlines, tay cuộn trong sợi dây đeo của chiếc túi kaki to bự; anh tắt đèn và cố gắng tìn đễn giấc ngủ. Chuyến bay chuyển tiếp cuối cùng trong ngày đã lên đường, cô ngủ thiếp đi.
Sáng sớm, cô bước vào phòng vệ sinh của nhà ga sân bay và đứng trước tấm gương lớn. Cô ghé mặt vào dưới vòi nước và cố gắng vuốt lại tóc; anh đứng trước gương đánh răng, vã nước rửa mặt và lấy tay cào cào đầu để chỉnh lại tóc cho ngay ngắn.
Cô nhìn mình một lần cuối trong gương rồi ra khỏi phòng vệ sinh với cái bĩu môi đầy vẻ hoài nghi; anh rời khỏi phòng khách sạn và bước về phía thang máy.
Cô vào một quán cà phê và gọi một ly cà phê lớn; anh gặp các bạn mình và cùng với họ dùng bữa tiệc buffet tại khách sạn.
Cô chọn một chiếc bánh bê-nhê(1); anh cũng lấy một cái bỏ vào đĩa của mình.
Vào giữa buổi sáng; anh trở lên phòng để bắt đầu chuẩn bị; Susan chìa chiếc thẻ lên máy bay của mình cho cô tiếp viên.
- Trên máy bay có phòng làm tóc không cô?
- Xin lỗi cô nói gì ạ?
- Nhìn tôi này, tôi sẽ đi thẳng đến dự môt tiệc cưới khi xuống khỏi chiếc máy bay này! Họ sẽ đưa tôi vào bằng cửa sau mất!
- Cô vui lòng bước lên trước đi, thưa cô, cô đang làm chậm cả đoàn người xếp hàng.
Cô nhún vai và bước vào đoạn hành lang hẹp dẫn lên máy bay, anh lấy chiếc móc áo ra khỏi tủ và gỡ lớp ni-lông bao bên ngoài bộ lễ phục dành cho chú rể. Từ một chiếc hộp các-tông trắng, anh lấy chiếc áo sơ-mi và mở nó ra; cô ngồi trên ghế, dán mặt vào ô cửa kính máy bay và thiu thiu ngủ.
Khi tất cả các chi tiết sử dụng cho bộ cánh chú rể của anh đã được lấy ra và bày theo đúng thứ tự trên tấm ga phủ giường, anh bước vào phòng tắm; cô đứng dậy và đi về phía buồng sau của máy bay.
Anh tìm chiếc dao cạo râu, xoa một lớp bóp lên cằm, lấy ngón tay trỏ tô theo đường cong của miệng mình và thè lưỡi ra với cái bóng phản chiếu trong gương; trong buồng toilet, cô đưa ngón tay vuốt dọc theo mí mắt, mở chiếc túi nhỏ đựng đồ cá nhân ra và bắt đầu trang điểm. Từ chiếc loa gắn trên máy bay, giọng một nam tiếp viên thông báo máy bay đang bắt đầu hạ cánh xuống NewYork, cô liếc nhìn đồng hồ, đã trễ giờ; cùng với những người làm chứng, anh bước lên chiếc limousine đen đang đợi anh trước khách sạn.
Chiếc băng tải hành lý trả cho cô cái túi xách to đã bị biến dạng, cô cầm túi đeo lên vai. Cô bước về hướng cổng; anh vừa tới sân trước nhà thờ, anh đưa tay bắt vài bàn tay đang chìa ra trong khi bước lên các bậc thang.
Cô đi ngang qua quán bar, quay đầu lại và, đôi mắt ướt đẫm, cô nhìn chăm chăm vào chiếc bàn nhỏ đặt sát ô cửa kính; anh bước qua ngưỡng cửa lớn và, đứng dưới mái vòm xây bằng đá, anh ngắm nhìn cái gian giữa của nhà thờ.
Anh bước tới với những bước chậm rãi, đưa mắt nhìn khắp xung quanh hai bên lối đi chính để tìm cô trong số những khách mời vừa đứng lên, nhưng anh không thấy cô; cô vứt chiếc túi ra băng ghế sau của một chiếc taxi vừa đậu lại bên lề đường. Sau mười lăm phút nữa, cô sẽ có mặt tại Montclair.
Khách mời dự lễ quay người lại khi những nốt nhạc đầu tiên vang lên từ dàn đàn ống. Mary xuất hiện trong ánh sáng trong suốt nơi cử chính nhà thờ, tay khoác trong tay của người cha. Cô bước về phía dàn đồng ca, gương mặt cô không để lộ cảm xúc khi họ nhìn nhau chăm chăm, như thể có một sơi dây được chăng ra nối liền hai ánh mắt. Những cánh cửa gỗ nặng đóng lại. Khi Mary đến bên cạnh anh, anh liếc nhìn một lần cuối về phía cử tọa, tìm kiếm một gương mặt mà anh vẫn chưa thấy.
Chiếc taxi vàng vừa đậu lại trước sân nhà thờ vắng vẻ. Có chăng một uy lực huyền bí nào đó khiến cho vỉa hè quanh những chốn linh thiêng luôn vắng vẻ đến lạ kỳ trong thời gian cử hành một đán tang hay đám cưới? Bước những bước nặng nề vì sự mệt nỏi sau một chuyến đi quá dài, cô cảm thấy những bậc thang như đang hẫng ra dưới chân mình. Cô đẩy nhẹ cánh cửa bên của nhà thờ bước vào và khẽ giấu cái túi dưới chân một tượng thánh. Nhận ra hai con người đang đứng đối diện với bàn thờ Chúa, cô chầm chậm bước lên theo lối đi theo gian phải, cô dừng lại trong giây lát bên chân mỗi chiếc cột nhà thờ. Khi đến khoảng giữa nhà thờ, tiếng dàn đồng ca đột nhiên ngưng lại, nhường chỗ ột khoảng dài im lặng tĩnh tâm. Sững sờ, cô dừng lại quan sát. Rồi vị linh mục lại tiếp tục buổi lễ, còn cô tiếp tục những bước đi tiến lên phía trước. Cô đi đến tận chiếc cột cuối cùng. Từ đó, cô có thể quan sát thấy Philip nhìn nghiêng. Còn Mary, cô chỉ thấp thoáng nhìn thấy đường cong của phần lưng chiếc đuôi váy cưới bằng lụa dài phủ đất. Đến phần nghi thức hôn phối đôi mắt Susan đẫm lệ. Lặng lẽ, cô nhẹ nhàng bước lùi về phía sau, bàn tay trái vụng về lần theo lưng các hàng ghế để dò đường. Cô cầm lại chiếc túi xách gửi dưới chân tượng thiên thần Gabriel và bước ra khỏi nhà thờ, lao xuống các bậc thềm và nhào vào một chiếc taxi. Cô mở cửa xe ra và ngắm nhìn cổng nhà thờ. Cố nén một tiếng khóc òa, cô thì thầm lặp lại theo tiếng vị linh mục đang nói: "Ai biết cuộc hôn nhân này có ngăn trở gì, xin lên tiếng ngay bây giờ, nếu không sẽ phải im lặng vĩnh viễn..."
Chiếc taxi bắt đầu lăn bánh.
Trên chuyến bay về nhà, cô nghiêng người trên chiếc bàn nhỏ gắn sau lưng ghế viết một lá thư.
Ngày 2 tháng bảy năm 1979,
Philip của em,
Em biết anh sẽ trách em rất nhiền vì đã không ở đó trong ngày cưới của anh. Lần này, chẳng có bất kì lý do nào để viện ra hết, em xin thề với anh. Em đã làm tất cả để có thể đến dự lễ cưới của anh. Bằng cả tâm trí của mình, em đã ở bên anh trong suốt thời gian diễn ra buổi lễ. Chắc chắn anh phải thật tuyệt vời trong bộ lễ phục chú rể, và em cũng tim rằng vợ anh cũng xinh đẹp rạng ngời, có cô gái nào lại không như vậy khi trở thành vợ của anh? Em đã nhắm mắt lại và dõi theo anh từng bước trong những thời khắc kì diệu ấy. Em biết rằng từ nay, anh sẽ được hạnh phúc và đâu đó, niềm hạnh phúc của anh cũng khiến cho em cảm thấy nhẹ nhõm.
Em đã quyết định nhận vị trí mà người ta đề nghị em. Thứ sáu em sẽ đi lên núi, em sẽ ở đó và xây dựng một trung tâm mới. Đừng giận em nếu như em viết thư cho anh ít hơn trong những tháng tới. Từ chỗ mới em ở, phải đi hai ngày đường mới tới được nơi ở trước đây, nơi vốn xa so với nền văn minh của chúng ta. Vì thế, từ nay, gửi lá thư đi hay nhận một lá thư đến gần như là điều không thể. Anh biết không, em cảm thấy hài lòng chấp nhận thử thách mới này, em sẽ mang theo nỗi nhớ về những người dân trong làng, nhớ ngôi nhà mà Juan xây cho em, ngôi nhà mà giờ đây đã đầy ắp kỉ niệm; gần như phải bắt đầu mọi thứ từ con số không, nhưng tìm thấy sự tin tưởng họ dành cho em lòng biết ơn trân trọng của bạn bè đồng nghiệp thân thuộc.
Hãy sống thật hạnh phúc, Philip của em, vượt lên trên tất cả những ngày tháng em đã vắng mặt, đã lỡ hẹn với anh, em vẫn luôn yêu anh một cách trung thành và sẽ yêu anh mãi mãi.
Susan.
Tái bút: Nhưng dù sao anh cũng đừng quên những điều em nói với anh ở sân bay.
Chú thích:
(1) Một dạng bánh ngọt.