Chương 23 - 24
May sao ngã không đau lắm, tôi bò dậy, vừa mới đứng thẳng người, đột nhiên trông thấy từ đằng xa có người đang đứng.
Cố Kiếm!
Hộp thức ăn còn cầm trên tay, hắn lẳng lặng nhìn tôi.
Tôi đành nhếch miệng cười với hắn.
Thế rồi quay đầu chạy biến.
Tôi chạy chưa quá 3 bước đã bị hắn tóm gọn, một tay hắn kẹp chặt cổ tay tôi, tay kia vẫn cầm hộp thức ăn.
Tôi bảo: "Ngươi thả ta ra ngay, ngươi nhốt ta ở đâu có ích gì? Dù thế nào đi chăng nữa, ta sẽ không theo ngươi đâu."
Cố Kiếm chợt bật tiếng cười gằn, đoạn bảo: "Thả nàng cũng được thôi, có điều, trước tiên phải theo ta đến 1 nơi đã, chỉ cần đến đó mà nàng vẫn khăng khăng theo ý mình, ta lập tức sẽ buông tha nàng."
Tôi thoạt nghe cứ cảm giác ngờ ngợ, bèn đề cao cảnh giác hỏi: "Nơi nào?"
"Nàng đi khắc biết."
Tôi lưỡng lự đoạn nhìn hắn, hắn nói: "Nếu như sợ thì thôi, đằng nào ta cũng không muốn thả nàng, không đi thì thôi vậy."
Sao phải sợ, tôi hắng giọng bảo: "Ngươi nói phải giữ lời đấy nhé?"
Cố Kiếm bật cười: "Chỉ cần nàng làm được thì đương nhiên ta cũng thế."
"Vậy còn đợi gì nữa, mau đi thôi." Tôi nói.
Cố Kiếm ngưng một lúc đoạn bảo: "Nàng không hối hận chứ?"
"Sao phải hối hận chứ." Tôi lại cho rằng, "Không chừng ngươi mới hối hận ấy."
Cố Kiếm cười, nói: "Ta không hối hận đâu."
Hắn đặt hộp thức ăn xuống, lúc mở ra, bên trong quả nhiên là một đĩa vịt nướng. Hắn bảo: "Nàng ăn no trước đã rồi chúng ta đi."
Vốn dĩ chẳng có bụng dạ nào mà ăn uống cả, thế nhưng trông dáng vẻ hắn, tôi mà bướng không chịu ăn, chắc chắn hắn sẽ chẳng dẫn tôi đi đâu hết, thế nên đành nhấc đũa ăn cho xong món vịt nướng kia vậy. Nói thực, cổ họng tôi lúc ấy khô khốc đau rát mà mồm miệng thì đắng ngắt, thậm chí đầu lưỡi cũng cứng đờ, trệu trạo nhai miếng vịt mà thật sự chẳng cảm nhận được mùi vị gì trong miệng. Tuy thế, tôi vẫn mau chóng ăn cho bằng hết, đặt đũa xuống đã bảo: "Đi thôi."
Cố Kiếm lại nhìn tôi, hỏi: "Ngon không?"
Tôi gật lấy lệ, hắn không nói gì thêm, chỉ ngước mắt trông trăng sáng trên trời, rồi giúp tôi kéo áo lông lên, che kín nửa già khuôn mặt, mới bảo: "Đi nhé."
Cố Kiếm vận khinh công rõ nhanh, tôi chỉ cảm giác được cành lá cây cối trước mắt rào rạt trôi tuột về đằng sau, thế rồi qua vài cái nhảy vọt trên mấy nóc nhà đã đến chân một bờ tường cao vút.
Trông bức tường kia, đột nhiên cảm thấy rất quen mắt.
Cố Kiếm kéo tôi, cả người nhẹ bẫng thế rồi nháy mắt đã đứng ngay cạnh hắn trên mái tường. Đứng trên tường, tôi không kiềm được ngó quanh quất trông trước trông sau, nom đờ cả người.
Đằng sau bức tường, mái ngói lưu ly chạy dài thành dải lớn, gốc mái hiên cong vút hùng vĩ, có đến mấy tòa đại điện chính giữa, đường viên của chúng khiến tôi thấy quen thuộc hơn bao giờ hết. Lần nào trèo tường, hình ảnh ấy chẳng đập vào mắt tôi đầu tiên. Tôi líu lưỡi, Đông Cung ư! Đây là Đông Cung mà! Nơi chúng tôi vừa rời khỏi chính là nội điện của Đông Cung ư.
Cố Kiếm trông tôi chết đơ như gà gỗ, liền hờ hững bảo: "Đúng đấy, nơi chúng ta tạm trú mấy ngày nay chính là nhà kho của Đông Cung."
Tôi nghiến chặt lưỡi cốt không thốt lên lời, thế có hận chết không cơ chứ, đáng lẽ ra, lúc trèo khỏi cửa sổ ấy, tôi phải hô hoán lên, phải kéo hết thảy Vũ lâm quân trong Đông Cung đến, thế là được an toàn. Cố Kiếm có bản lĩnh cỡ mấy cũng không thể cướp tôi chạy khỏi vòng vây của hàng ngàng hàng vạn thị vệ Vũ lâm quân....tôi thật sự hận chết mất.
Hiềm nỗi có hối hận thêm nữa cũng ích gì. Cố Kiếm kéo tôi nhảy xuống bức tường cao, rồi chạy trên nóc nhà dân, rẽ trái rẽ phải mấy khúc, phi từ mái ngói xuống sân vườn một hộ nào đó, đi xuyên qua sân, mở một cảnh cổng nhỏ, thế là, quanh cảnh phồn hoa náo nhiệt rợp đất trời đã hiển hiện ngay trước mắt tôi.
Hằng năm vào độ này, ánh đèn rực rỡ nơi nơi, người chen vai dưới xuống phố, tiếng nói cười rộn rã muôn nẻo đường. Chừng như thế gian này có bao nhiêu người, từng ấy đều đổ cả xuống đường, chừng như thế gian này có bao nhiêu đèn, chừng ấy đều treo cả trên phố phường Thượng Kinh. Trăng sáng vằng vặc lửng lơ treo giữa khoảng trời sậm tựa màu 1 nghiên mực khổng lồ, vầng trăng sáng trong như tấm gương, trăng rằm lững lờ trôi; mà ông trăng kia cũng giống với cái bánh nếp trắng ngần dập dềnh trong bát canh lắm đây, cắn một miếng bánh, vị ngọt ngào của mạch nha như ứa ra khắp vòm miệng. Những mái ngói san sát lấp lánh như được ánh trăng dát lên lớp sương mỏng manh, càng soi tỏ càng sáng ngần sắc trời, nom là vậy nhưng chẳng hề có hơi lạnh, mùi thuốc pháo nồng nồng luồn theo cơn gió, cũng thoảng trong gió có mùi phấn son con gái thơm thơm, thêm 1 làn gió nhẹ phảng phất gửi kèm hương ngọt lịm của đủ các thể loại đồ ăn...Mọi thứ cứ hòa quyện vào làm một, lẫn với nhau thở ra hơi thở đặc trưng của đêm tết Nguyên tiêu. Đèn hoa muôn màu, muôn sắc, muôn vẻ được treo cao trước hiên nhà 2 ven phố phường, đèn được móc cả lên cây, trên phố người ta dựng lều trúc, dưới mái lều cũng trưng chật kín đèn. Đâu đó còn có người múa đèn rồng, múa kỳ lân, múa thuyền đèn...
Tôi và Cố Kiếm hòa mình giữa biển đèn sóng người, chỉ thấy bốn bề là người với người, là đèn với đèn. Lách qua dòng người nhốn nháo như triều dâng ấy, rồi từng ngọn đèn trước mắt cứ trượt dài bỏ lại phía sau lưng, đèn ở 2 bên, đèn chạm ngang mày...mỗi một quầng sáng, nào vàng, nào hồng, nào lam, nào lục, nào tím, nào đỏ...nhìn mãi cũng bị đống đèn ấy làm cho chóng mặt. Nhất là đèn đua ngựa, cứ quay mòng mòng, trên đầu là tranh thêu nhân vật điển tích; cả đèn lưu ly của Ba Tư, sáng chói mắt lắm thay; lại còn đèn giá, giá đèn dài tạo hoa văn hình chữ to khủng khiếp, dài cứ phải ví như là tràng giang đại hải; bên cạnh có đèn đố chứ, đoán ra ắt có thưởng; nhưng vĩ đại nhất tất phải kể đến đèn 9 khúc, hoa đăng xếp cụm tạo thành con sông Hoàng Hà chảy nghiêng 9 khúc, có ai bước vào mê trận hoa đằng ấy, chẳng mấy mà lạc đường, rẽ trái không ra, mà rẽ phải càng không phải...Nghe nói dàn trận theo binh pháp thời thượng cổ, thế nhưng trái có đèn mà phải cũng là đèn, lạc vào ma trận đèn song chẳng ai lấy làm sốt ruột, họ cười cười quanh quẩn mò mẫm trong thế trận hoa đăng...
Cảnh phồn hoa đô hội này, nếu như là trước đây, quả thực tôi không biết mình sẽ mừng vui đến nỗi nào, song rằng ngày hôm nay tôi đành cúi gằm mặt, phó mặc tay mình trong tay Cố Kiếm, chúng tôi lặng lẽ lướt dưới dàn đèn treo lơ lửng đỉnh đầu. Phố phường huyên náo từ đầu đường đến cuối ngõ, xiết bao người đang đứng xem múa đèn rồng, người ta đứng chen nhau không chừa lấy 1 kẽ hở, Cố Kiếm buộc lòng phải dừng lại. Chốc chốc lại có một luồng lửa dài màu ánh bạc phụt ra từ miệng rồng, người xem tấm tắc khen hay. Bất ngờ, nó thò đầu quay ngoắt sang phía tôi, phì một chuỗi lớn khói lửa, người đứng xung quanh ai nấy đều thót mình giật lùi, ngọn lửa cháy ngay trước mắt, tôi hoảng quá không kịp nhắm mắt, bị dòng người xô lấn suýt té ngửa, may sao Cố Kiếm đứng sau lưng kịp giơ tay đỡ lấy, lúc tôi hé mắt nhìn thì thấy mình đang nằm gọn trong lòng hắn, ống tay áo bưng bít cả khuôn mặt tôi.
Tôi làm thinh, chỉ chuồi người ra khỏi vòng tay đang quàng lấy thân mình, may sao hắn không hề gò ép tôi, chỉ kéo cánh tay tôi, tiếp tục lao về phía trước.
Vừa đi ngang con phố Nam Thị, bỗng đâu văng vẳng 1 câu huýt sáo, có tiếng nổ "bịch" giữa khoảng không, thảy những ai đứng đó đều ngước mắt trông lên, thấy bên kia bầu trời rợp ánh vàng ánh bạc, lồng vào nhau đơm thành bông hoa to lắm, sáng lắm, đến độ trăng rằm kia đành nép mình nhường bước cho pháo bông nở rộ. Thì ra trên tháp Thất Tinh đã bắt đầu nổ pháo hoa.
Nhìn về phía Thất Tinh tháp, nơi ấy như đang vẩy vàng rắc bạc vào không trung, những tràng pháo hoa liên tiếp bùng nổ trên bầu trời, mở đầu chỉ có từng tia nhỏ như giăng sấm, sau thì nào là mẫu đơn chúm chím độ xuân sang, nào là cảnh thái bình yên vui, nào là trăm năm hòa hợp... pháo hoa rộ nở muôn hình muôn vẻ, trong khi ai nấy đều ngước trông với vẻ hồ hởi si mê. Cố Kiếm cũng ngẩng đầu xem, trong cái se se lạnh của tiết xuân, gió đêm nâng tấm khăn vải đội đầu phất phơ, con chợ chìm giữa biển đèn chỉ ngay sau lưng, mỗi lần pháo bông vụt sáng, khuôn mặt hắn cũng bừng lên rạng rỡ, mỗi lần khói lửa lụi tắt, khuôn mặt kia phảng phất như bị bóng đêm ủ vào lòng. Mỗi nhịp ánh sáng vụt đến vụt đi đan xen chồng chéo, tôi đều ngó hắn.
Mà thực ra, tôi đang nghĩ, nếu như lúc này bỏ chạy, Cố Kiếm chưa chắc đã đuổi kịp đâu nhỉ, đường thì đông là thế, tôi chỉ cần hòa mình vào dòng người, khẳng định hắn có tìm đằng giời cũng chẳng ra.
Có điều hắn túm tay tôi chặt quá, cứ cầm riết, tôi nhủ mình có vùng ra cũng khó.
Hàng quán ven đường trải dài hun hút, họ rao bán cờ ngải tằm hoa tuyết liễu cài đầu mừng xuân, nom óng a óng ánh rung ra rung rinh, liếc qua thôi đã thấy lóa cả mắt, khiến người ta sinh lòng hứng thú. Tôi cúp mi mắt, vốn không màng nhìn đống ấy. Nhưng tự nhiên có gã tiểu thương không biết điều nhô ra chặn chúng tôi lại, gã đon đả chèo kéo với Cố Kiếm: "Công tử ơi, mua cho nương tử nhà ngài đôi hoa cài đâu đi nào! Phu nhân nhà ngài có vẻ ngoài duyên dáng thế mà cài hoa hàng chúng lên, đẹp rõ như thêu gấm trên hoa, đã đẹp nay càng thêm xinh! Mười đồng 1 đôi, vừa đẹp lại rẻ! Công tử ơi, lựa một đôi hoa cài đầu đi nào!"
Cố Kiếm phẩy tay, tôi đoán hắn phẩy tay xua gã bán hàng rong đi, ai mà biết hắn lại chọn những 2 chiếc trâm cài đầu hẳn hoi, rồi trả cho gã nọ 10 đồng.
Hắn nói: "Cúi đầu xuống nào."
Tôi bảo: "Ta không thích những thứ này." Hắn để ngoài tai lời tôi nói, giơ tay cài hoa lên mái tóc. Cài xong 1 cành, lại cài tiếp nhành kia.
Bởi vì đứng rất gần nhau, hơi thở hắn phả trên mặt tôi ấm nóng mà khẽ khàng, cũng hơi ngưa ngứa nữa. Thấy người hắn phủ một làn hương dìu dịu, không phải hương trầm hương long diên hằng ngày vẫn quen hít hà, có chăng là một mùi vị nào đó rất khó gọi tên, thơm giống mùi dưa gang trồng trên đất Tây Lương, ngọt thanh mà thoảng cái cảm giác mát dịu. Cài xong, Cố Kiếm kéo tay tôi, hắn ngắm trái ngắm phải tử tế hẳn hoi, như thể sợ cài lệch dù chỉ một tí tẹo. Trước đó tôi nào đã bị hắn quan sát kỹ càng đến thế, thành thử hai bên tai cứ nóng bừng, đâm mất tự nhiên, đành thúc giục hắn: "Đi thôi."
Thực ra tôi vẫn chưa biết hắn sẽ dẫn mình đi đâu, mà dường như hắn cũng vậy, giữa phố xá phồn hoa tấp nập này, chúng tôi nửa đi nửa dừng, có lẽ vì người quả thực quá đông. Dòng người như cơn thủy triều rập rình dồn sóng về phía trước, đi nhanh thì khó, mà muốn lách cũng đành chịu.
Suốt cho đến khi rẽ sang con đường cuối cùng, con đường Chu Tước trải dài thẳng tắp ngay trước mắt. Kéo dài tầm mắt một chút, con đường Thiên Nhai ngoài cổng Thừa Thiên hằng ngày vốn cấm người, nay cũng đứng chật ních, minh lầu ngự trên cao giữa ánh đèn lộng lẫy.
Tôi mới vỡ lẽ ra nơi hắn toan dắt tôi đến, nỗi sợ hãi đột nhiên dâng lên trong lòng
"Sao? Không dám đi à?" Cố Kiếm thản nhiên cười bảo, hắn ngoái đầu nhìn tôi, tôi luôn cảm giác nụ cười ấy có phần mỉa mai, lần đầu tiên gặp hắn, hắn vốn đâu có kiểu cười này. Lúc ấy hắn hắn mặc áo choàng màu trắng ngà ngà, đứng dưới mái hiên ven đường, dõi theo tôi và A Độ chạy như bay dưới phố.
Sao bây giờ lại thành ra thế này?
Tôi lừa mị chính mình một hồi đoạn bảo: "Rốt cuộc ngươi muốn thế nào?"
"Đau thương đến tan nát cõi lòng." Giọng hắn đều đều, như thể đang kể một câu chuyện ngắn ngủi, "Lòng ta đã chết, thế nên ta muốn nàng cũng phải thế thử xem."
Tôi nào có nghe rõ hắn nói gì, tư tưởng chỉ hướng về nơi cổng lầu chót vót trên cao mà xa lắc xa lơ kia kìa. Nơi ấy chính là Thừa Thiên Môn, đằng cổng thành ấy treo vô sô đèn lồng màu đỏ rực, điểm xuyết bằng những cụm đèn nhỏ đa màu sắc, hoa đăng tô điểm lên toà lầu thứ ánh sáng lung linh trùng điệp, hàng ngàn sa số bó đèn sáng rực vây lấy chân thành, ánh đèn hô hoán nơi cửa ô Thừa Thiên Môn bỗng chốc biến thành chốn lầu son gác tía lưng chừng trời. Bước lại gần hơn mới nhìn ra trên lầu còn buông phủ lớp màn che đỏ thắm, gió đưa mành lụa phất phơ, thấp thoáng sau màn có đội nghi trượngcùng bóng người. Búi tóc cao ngất của đám cung nữ lẫn trong dáng thướt tha yêu kiều đang dạo gót trên lầu, ánh đèn dán những chiếc bóng xinh đẹp của họ lên tấm màn, gợi tôi chợt nhớ đến màn kịch chiếu đèn dạo trước từng xem trên phố. Cổng Thừa Thiên sừng sững cao ngút trời, tôi trông lên thảy những cảnh trên tòa lầu ấy giống như kịch đèn được dán bìa giấy trắng, nhất cử nhất động đều khiến tôi cảm giác xa vời khó với.
Có âm thanh văng vẳng từ trên lầu sà xuống, thậm chí, ngay cả tiếng nhạc ấy cũng bị đẩy dạt vào xa xăm, người dưới chân thành bỗng nhiên ồn ào náo động hẳn, thì ra tấm màn trên lầu cao chợt khẽ lộ, đám cung nữ tung đồ xuống, dân đứng dưới nhốn nháo tranh nhau đoạt, họ ném xuống tiền vàng Thái Bình, do nội cục đúc riêng, ngự ban cho trăm dân đến ngắm hoa đăng. Những đồng tiền vàng vừa được rải, leng keng đáp xuống nền đá xanh nơi con phố Thiên Nhai, cứ như thể một cơn mưa rào lộng lẫy ánh vàng. Thiên triều giàu sang, thịnh thế thái bình, dồn cả vào trận mưa rào leng keng lanh canh...
*hôm qua bị bạn nó siết cổ dọa bảo không làm cho nhanh Đông Cung nó cắt tờ rym T^T sợ quá, hôm nay bật máy cái là phải post luôn, từ nay xin chừa không dám lề mề :(((((((((((((((
Cuối cùng cũng đã nhìn thấy Lí Thừa Ngân, tuy xa xôi cách trở, thế nhưng chỉ vừa liếc mắt tôi đã nhận ra ngay. Chàng khẽ tựa mình nơi thành lầu, lọng xanh hoa lệ khoe ngọn gió sau lưng, ngù Cửu Khúc buông mình dập dềnh, gió gieo cả vào tay áo bào. Tôi trông thấy cả bệ hạ, lúc ấy dân chúng vây quanh đồng loạt quì xuống, nhao nhao tung hô: "Vạn tuế!"
Nhà đế vương phú quý, cảnh thiên hạ thái bình(*), chưa hề 1 lần tôi cảm thấy thảy những thứ ấy lại xa vời với mình đến thế, lại lạc lõng với tôi là vậy.
Tôi nhìn thấy Triệu lương đệ, nàng ta mặc trang phục hoàng tộc, từ đằng sau dạo gót tiến gần thành lầu, đành rằng không lộ diện, dẫu vậy tôi vẫn nhận ra bóng dáng đổ trên tấm rèm kia. Thế rồi lại trông cánh tay thò từ sau màn, choàng lên vai Lí Thừa Ngân một tấm áo lông đen tuyền. Trời trở gió, tấm áo bập bùng chao nghiêng, lớp gấm đỏ tươi trên áo choàng còn thêu hoa văn nổi bằng chỉ kim tuyến – thu cả vào mắt tôi, dưới ánh đèn nơi cổng thành, nó ánh lên lóng lánh. Lí Thừa Ngân ngoảnh mặt đi, khoảng cách xa xôi, tôi không tài nào nhìn rõ sắc diện trên khuôn mặt chàng, liệu chăng trên bờ môi ấy đang nở 1 nụ cười với người đẹp khuất sau rèm.
Xưa kia, tôi nào có được lên Thừa Thiên Môn, 3 năm rồi chưa từng cùng Lí Thừa Ngân ăn lấy một cái Tết, bao năm nay tôi nào có hay, thì ra mỗi độ Nguyên Tiêu, chàng và Triệu lương đệ lại sánh đôi nơi cao chót vót, kề vai ngóng xuống 10 vạn đèn hoa bao phủ Thượng Kinh.
Đôi lứa cùng nhau, đêm nay đây, đêm này chính là ngày lành tháng tốt để mà kết lứa xe đôi.
Tôi vẫn ngỡ tưởng, chúng tôi đã đổi thay, tôi còn tưởng rằng, chuyện đã xảy ra ngày hôm qua, đáng lẽ phải có sự khác biệt chứ. Tối qua lúc tôi bị thích khách bắt đi, chàng từng nhìn tôi, chàng từng gọi tên tôi, chàng bẻ tên thề. Tất thảy, thảy những thứ ấy đều khiến tôi ngộ nhận, đôi ta đã đổi thay, thế nhưng sao vỏn vẹn có 1 ngày, chàng đã đứng kia, đã sánh vai bên người con gái khác đứng kia, ra điều ta đây chẳng từng xảy ra chuyện gì, ra điều thờ ơ thưởng thức cảnh Nguyên tiêu đô hội, đón nhận câu chúc phúc của muôn dân.
Trong khi, tôi sống chết ra sao còn chưa hay, trong khi, tôi đáng lẽ mất tăm mất tích, trong khi, tôi mới là vợ chàng kia mà.
Thoáng nghe có ai đó gọi tên mình: "Tiểu Phong."
Tôi quay sang, bần thần nhìn Cố Kiếm.
Mắt hắn dán ở nơi tôi, môi tôi lừng khừng nặn một nụ cười, định bụng nói dăm câu.
Thế mà gió ùa trong khuôn miệng vừa hé mở, gió buốt lạnh kéo theo cơn ho không buồn nguôi ngoai, cổ họng trước đó đã đau ghê người, giờ đây từng cơn ho như chực xé toạc cả yết hầu. Ho cơn nào đầu nhói theo cơn đó, chẳng khác nào có cục đá bị nhét trong ấy, cạnh sắc nhọn của nó cứa vào huyết mạch, muốn thở cũng phải chật vật. Tôi còng lưng ho không dứt cơn, chực sắp ho ra nào tim nào phổi, cơn ho hòng như cố sức lôi nội tạng trong người ra ngoài kì được mới thôi. Đau là lẽ đã đành, thế mà chỉ duy có lồng ngực, chỗ ấy khó chịu lắm thay, trách chăng cái lạnh, trách chăng người vốn đang sốt cao... có bệnh tất phải khó chịu thế thôi.
Cố Kiếm đỡ tôi, tôi lảo đảo một chặp, thấy như thể có gì đó thế là đã nứt đôi, khi âm thanh khàn đặc thoát ra khỏi cuống họng, dường như lồng ngực cũng được vỗ về phần nào.
Hắn nâng mặt tôi, tôi nghe thấy tiếng mình: "Cũng chẳng có gì ghê gớm..." vậy rồi, trong đôi mắt ấy đã hằn lên tia khổ sở méo xẹo, hắn chợt đưa tay quệt khóe miệng tôi.
Dưới ánh đèn, tôi thấy ngón tay hắn đọng vệt máu, máu bám cả trên ống tay áo, những ngấn loang lổ, từng đốm từng đốm, thảy toàn là máu tươi. Cơ thể nhũn nhùn, người tôi xây xẩm, đoán chắc mình đứng không vững, như thể mới rồi tôi bán mạng nôn ra cục máu ấy. Hắn ôm tôi, thầm thì bên tai tôi nói: "Tiểu Phong, nàng khóc đi, nàng cứ khóc một trận cho thỏa đi."
Tôi đẩy hắn bằng thứ hơi sức cuối cùng: "Sao phải khóc? Ngươi cố ý dẫn ta đến xem cảnh này cơ mà, sao ta phải khóc? Ngươi không cần vờ vĩnh như thế, sao ta phải khóc chứ? Ngươi bảo xem xong thì ngươi thả người, giờ ta phải về rồi!"
"Tiểu Phong!" Hắn đuổi theo toan đỡ tôi. Bước chân loạng choạng, song vẫn cố đứng vững, tôi ngoái đầu, tuốt trâm hoa cài tóc quẳng xuống chân hắn, lạnh nhạt nhìn đoạn bảo: "Cấm ngươi đụng vào ta, cũng đừng có theo ta nữa, bằng không ta chết trước mắt cho ngươi xem, đành rằng ngươi có võ công tuyệt thế, ngăn thế nào được một khi ta đã khăng khăng muốn chết, ngươi cản được 1 lần, cản sao được cả đời. Ngươi cứ thử theo ta mà xem, ta thể nào cũng tự sát kì được đấy."
Có lẽ giọng tôi lúc đó cương quyết lắm, nên hắn cũng chững lại một chỗ, không dám tiến gần.
Tôi đá bước thất tha thất thểu, chẳng biết đã đi được bao xa, bốn bề bao bọc là người, bốn bề bao bọc là đèn chói lòa. Tôi túm chặt cổ áo khoác, cảm nhận thân mình lẩy bẩy từng cơn run, lạnh đến nỗi răng lợi va vào nhau lập cập, tôi biết mình đương cơn sốt, chân bước ngỡ đạp lên cát, mềm oặt ẹo chẳng mấy sức lực. Bải hoải đứng dưới dàn đèn, khắp nơi là tiếng cười hoan ca vô bờ bến, người qua người lại rộn ràng nhộp nhịp tựa thoi đưa, tháp Thất Tinh bắn từng chùm pháo hoa lộng lẫy nở rộ trênbầu trời cao ngất, Nguyên tiêu rực rỡ màu sắc, Nguyên tiêu phồn hoa đô hội, tôi đi đâu về đâu?
Gầm trời bao la này, hỏi có chốn nào cho mình dung thân.
A Độ ơi, A Độ ơi, ngươi ở nơi nao? Chúng ta về Tây Lương đi thôi, ta nhớ Tây Lương rồi.
Trước mắt tôi là một lồng đèn kéo quân, chao đèn dán giấy thếp vàng hình một người con gái, hơi nóng giẫy từ ngọn nến uốn lượn tỏa ra, chao đèn không ngừng quay tròn, người con gái đó thoắt đứng thoắt ngồi thoắt yêu kiều thoắt giận dữ, lại thoắt hoan hỷ... Trước mắt cứ sụp tối dần, người con gái dán trên đèn sao có nét hao hao Triệu lương đệ, nàng ta bưng miệng cười, ngạo mạn cười bảo tôi: Tỷ nghĩ có chi khác ấy à? Tỷ tưởng rằng mình chiếm được chỗ đứng trong lòng chàng rồi ư? Tỷ tưởng mình làm con tin thay bệ hạ, chàng sẽ rủ lòng tiếc thương vài phần ư...
Ngặt nỗi vố này rõ công toi.
Tôi dựa vào thân cây mới đứng vững, lớp vỏ sần sùi thô ráp cào vào áo lông buốt đau, nhưng thà rằng thế tôi mới thấy dễ chịu... Chỉ cần cơn đau nhức ấy làm vơi đi cái sự âm ỉ trong lồng ngực. A Độ thì chẳng thấy đâu, ở thành Thượng Kinh này, tôi thành ra bơ vơ trơ trọi. Tôi có nơi nao để đi? Một thân một mình về Tây Lương, dẫu phải đi 1 tháng, 1 tháng không đến thì 3 tháng, 3 tháng chưa tới thì nửa năm, nửa năm vẫn không đặng, đi hẳn 1 năm, thế nào chẳng về được Tây Lương.
Lúc ấy ngước mắt trông trăng, một ánh trăng rằm tròn đầy, sáng trong, dịu dàng soi tỏ từng mặt người. Thượng Kinh phồn hoa yên bình hiển hiện cả dưới ánh trăng, dạo trước đây, tôi và A Độ từng vô số lần dạo khắp phố lớn ngõ nhỏ ở Thượng Kinh, hiềm nỗi nơi này mãi mãi không phải nhà tôi, tôi phải về nhà mình thôi.
Tôi chậm rãi đi về phía tây thành, muốn tìm về Tây Lương, ắt phải qua Quang Hoa Môn, rồi cứ thẳng tiến phía tây, cứ thẳng về phía tây, qua được Ngọc Môn Quan đã là Tây Lương.
Tôi phải về nhà thôi.
Tôi còn chưa chạm mặt Quang Hoa Môn, bỗng nhiên nghe dân xung quanh thất thanh la hét, nhiều người trở nên xôn xao, có người gào lên: "Thừa Thiên Môn có cháy!"
Tôi cứ ngỡ mình nghe nhầm, mọi ánh nhìn đổ dồn về Thừa Thiên Môn nơi phía Nam, đằng ấy thoáng có bóng lửa chập chờn, cột khói đen dày đặc bốc lên cuồn cuộn từ mái vòm, ai nấy đều bụm miếng kinh hãi, giương mắt nhìn ngọn lửa bốc lên dữ dội bao chùm toàn bộ thành lầu. Thảy những chuỗi đèn như châu như ngọc, thảy những mành rèm thắm đỏ, thảy những mái hiên sững sững đồ sộ....chỉ vừa mới rồi thôi, giờ đây đã bị khói và lửa nuốt trọn, đám cháy mỗi lúc một to, lửa bùng thêm mãnh liệt, gió được đà bốc ngọn lửa lên cao, Thừa Thiên Môn bừng bừng phát cháy.
Cả con phố bỗng trở nên hỗn loạn, lúc này cả đường nhốn nháo, ai cũng chỉ lo chạy tháo thân, thì còn biết làm gì vào lúc này. Chênh chếch bên kia đường đã xuất hiện vài đội Thần vũ quân, tôi nghe họ quát tháo ầm ĩ, hò dân chúng tự giác nhường đường, vó ngựa quét qua chẳng khác nào cơn lốc, thế rồi đám người cứu hỏa cũng rầm rập xuất hiện, họ vác theo ống gỗ, người ta kéo những thùng xe lớn chở đầy nước lao như bay về đằng hỏa họan, tiếng lộc cộc lê dài con chợ. Tết Nguyên tiêu hằng năm, năm nào chẳng đốt pháo bông, lại còn chăng ối đèn lồng, hễ cháy nổ ra đấy thế nào cũng gây họa lớn, vì lẽ đó mà quan Kinh triệu doãn hằng năm đều chuẩn bị sẵn ống cứu hỏa và xe nước, giả như dân có gặp cháy cũng có đường dùng, chỉ là không ngờ năm nay lại gặp dịp dùng vào việc lớn.
Tôi đánh mắt trông phía Thừa Thiên Môn lúc này đang bị Thần vũ quân vây kín, thoáng chốc đã thấy môt toán cung nhân bưng nghi truợng, lay lắt nối đuôi Thần vũ quân đi về đằng Hoàng cung trên một quãng đường dài ngoằn ngoèo, tôi tự nhủ ắt cũng chẳng xảy ra chuyện to tát.
Mà đáng lẽ, tôi chớ có nên lo lắng làm gì, người trên Thừa Thiên Môn ai chết ai sống, nói cho cùng, giờ đâu còn dây mơ rễ má gì với mình mà vác chuyện vào thân cho rách việc.
Giờ chỉ lo về Tây Lương, chỉ muốn bảo với cha con đã về, rồi lôi con ngựa nhỏ của mình ra, lao băng băng trên thảo nguyên, tựa như những ngày tháng vô tự lự dạo còn bé.
Tôi dồn sức tiếp tục cuộc hành trình về phía tây thành, ngựa của Thần vũ quân vút qua bên mình, chỉ kịp nghe roi quất vun vút lẫn trong tiếng gào thét ran trời: "Hoàng thượng có chỉ! Đóng chín cổng thành!" tiếng họ ngân vang kéo dài, phóng qua một đoạn rõ xa vẫn còn vẳng lại, "Hoàng thượng có chỉ! Đóng chín cổng thành!" Hoàng thượng có chỉ! Đóng chín cổng thành!"...
Tết Nguyên Tiêu đã trải qua hàng trăm năm thịnh vượng, xưa nay chưa từng xảy ra chuyện này, song dân chúng cũng không lấy làm lạ, sở dĩ họ vẫn chưa hết bàng hoàng kể từ lúc vụ cháy xảy ra quá đỗi đột ngột, đến tận lúc này họ còn đang bàn tán xôn xao về vụ việc trên. Trước vô số vòi nước xối xả vào Thừa Thiên Môn như 1 con rồng trắng xóa đang quẫy đuôi tung hoành ngang dọc, cuối cùng ngọn lửa đã được khống chế, khói dịu bớt, thay vào đó, hơi nước bốc lên nghi ngút, mùi than cốc nồng nặc chùm lên bầu không khí.
"Cổng thành đóng rồi, chúng ta về làm sao đây?"
"Ôi giời, lửa to thế, sợ lớn chuyện thì đóng cổng thành thế thôi, đợi lúc nữa, Thừa Thiên Môn tắt lửa rồi, thế nào cổng thành chả mở..."
Người trên phố xôn xao mỗi người góp dăm câu, thôi thì đủ các thể loại tạp âm khiến tôi sốt cả ruột. Chưa nhúc nhích được bước nào, đến thở cũng thấy bỏng rẫy như thể họng đang ngậm hòn than, ráo và rát cháy, tôi thở hồng hộc rồi ngồi phịch ngay lề đường, đầu ngả vào cây.
Tôi tự nhủ mình chỉ nghỉ một lúc thôi, chẳng ngờ tựa ở đó thế rồi mê man lịm dần.
Hình như dạo còn bé xíu, tôi theo cha đi săn, ngủ gục trên lưng ngựa, cha cõng tôi, cõng đến tận lúc về. Tôi nhoài mình trên tấm lưng rộng của cha, yên tâm đánh một giấc, lúc ngủ còn nhỏ dãi, bám vào phần lưng áo cha có chút ẩm ẩm. Tôi uể oải nhấc mí mắt, chỉ thấy phố xá ngập trong ánh đèn lung linh huyền ảo nối đuôi nhau, tựa như sao băng thỉnh thoảng xẹt qua trời đêm mùa hạ trên thảo nguyên. Nghe nói nếu có dịp gặp sao băng thì phải thắt nơ đai áo, đồng thời ước điều gì đó là chẳng mấy sẽ thành sự thực, thế mà tay chân tôi vụng về lóng ngóng, mỗi lần thấy sao băng, tuy không quên cầu nguyện, có điều lại quên béng mất phải thắt nút...
Đêm nay sao có nhiều sao băng thế, nếu mà tôi muốn ước, giờ còn điều gì để ước nữa nhỉ?
Tôi cố sức giơ tay ra, toan thắt đai áo, thế nhưng ngón tay mềm oặt, không mấy sức lực, tay tôi thõng xuống, thôi vậy.
Đành thế, đành thôi vậy.
Tôi nhắm mắt, chìm hẳn vào giấc ngủ.
Giấc ngủ kéo dài bao lâu không rõ, nó đằng đẵng như thể đã trải qua trọn vẹn 1 đời người, song có thể cũng chỉ là thoáng chốc ngắn ngủn tủn mủn, nó sâu lắng, nom có vẻ sâu mà hóa ra nông choẹt, tôi lúc nào cũng thường trực cảm giác trước mắt mình có chiếc đèn kéo quân không ngừng quay tít, quay cứ quay, giấy thếp vàng phát thứ ánh sáng chói đau cả mắt, bên tai chầu chực tiếng người rì rầm, không chịu nhường lời cho sự yên tĩnh dù chỉ một khắc. Tôi thấy cáu, sao không cho tôi một giấc ngủ yên? Tôi biết mình ốm rồi, cơ thể thoắt lạnh thoắt nóng, chợt thế này chợt thế kia, lúc lạnh, răng nghiến vào nhau kèn kẹt, lúc nóng, răng nọ lập cập đập răng kia, mỗi hơi thở ra lúc này đều bỏng rát.
Trong cơn mê tôi cũng lẩm bẩm nói mấy câu, nào thì tôi muốn về Tây Lương, tôi muốn gặp cha, tôi muốn A Độ, tôi muốn con ngựa nhỏ của mình...
Tôi cần quãng ngày xưa kia, chỉ có mình tôi biết, thứ tôi cần, thực ra có muốn cũng không với tới.
Mới trước đó, lúc ho ra máu, tự tôi đã hiểu ra tất thảy.
Lồng ngực đau đớn quặn thắt, ý thức phai mờ rồi lịm dần vào giấc ngủ.
Trong giấc mơ, tôi thúc ngựa lao vun vút giữa sa mạc hoang vu không một lằn ranh giới, ráo riết kiếm tìm khắp bốn phương, quẩn quanh lạc lõng giữa mọi bề, lúc ấy, có lẽ nước mắt rơi, và tôi nghe thấy tiếng mình nghẹn khóc.
Khóc cái nỗi gì? Con gái Tây Lương chúng mình, trước đây đừng hòng sụt sùi vì mấy chuyện vặt này.
Mãi đến khi bừng tỉnh,cảm giác ê ẩm khắp thân mình, mí mắt rít rịt, nặng đến độ có cố mở cũng khó. Tôi gượng hé mắt, thoạt nhìn vậy mà thấy ngay A Độ, mắt nàng ấy hoen đỏ cứ chằm chằm vào tôi mãi. Xung quanh tối om, đỉnh đầu lại có mấy cái lỗ thủng hứng sao, thứ ánh sáng lưa thưa len lỏi xuống. Cuối cùng tôi nhận ra, chỗ này là 1 gian miếu hoang, cớ sao đã ở đây? A Độ đỡ tôi nhỏm dậy, bón cho tôi ít nước. Lồng ngực phỏng rát cũng phần nào nguôi ngoai, tôi nắm thật chặt tay nàng ấy, thì thào bảo: "A Độ, chúng ta về Tây Lương thôi."
Giọng tôi khản đặc nói không ra hơi, tự mình nghe cũng còn chẳng rõ, A Độ lại gật đầu, ngón tay mát rượi của nàng ấy vuốt trán tôi có thứ cảm xúc khoan khoái lạ. May mà A Độ trở về rồi, may mà A Độ tìm ra tôi rồi, tôi chẳng còn hơi sức đi hỏi nàng ta xem 2 ngày nay chạy biến đi đằng nào, tôi bị thích khách bắt cóc, hẳn nàng ấy nóng lòng lắm đây. Có cô bé này ở bên, tim tôi nhẹ nhõm hẳn, A Độ về rồi, tôi cố sức mở mắt nhìn nàng ấy thêm 1 lần, nàng ấy đứng ngay bên mình, hình như đang giỏng tai chăm chú nghe tiếng gì đó, tôi cũng thấy thế, như thể tiếng sấm rầm rập rền vang, có đội ngựa đang tiến dần về đằng này.
A Độ khom người dìu tôi dậy, thân thể tôi nhũn nhùn hầu như chẳng mấy sức lực.
Nếu như kẻ sắp đến là Thần vũ quân hay Vũ lâm lang, tôi cũng chẳng thiết gặp, bởi lẽ tôi không muốn gặp lại Lí Thừa Ngân, chỉ sợ A Độ không cách nào đưa tôi trốn được bọn người ấy.
Có kẻ đạp tung cửa miếu, chính giữa thế ngàn cân treo sợi tóc ấy, trên xà nhà đột nhiên có bóng trắng lao xuống tưởng đâu như một loài chim to không gì sánh bằng. Lưỡi kiếm sáng quắc đâm thẳng hướng cửa, rồi nhiều tiếng rú thảm thiết, tôi nhận ra người vừa phi thân từ xà nhà xuống chính là Cố Kiếm, mà những kẻ sụp mình đổ xuống ở bên ngoài, quả nhiên vận trên người trang phục của Thần vũ quân. Lúc ấy chỉ cảm giác máu nóng trong người đang sôi lên đằng đầu, không muốn gặp lại Lí Thừa Ngân đã đành, đằng này Cố Kiếm lại đang xuống tay giết người.
Trong tay A Độ nắm chắc thanh kim thác đao, cảnh giác quan sát cảnh tàn sát giữa Cố Kiếm và phía Thần vũ quân, tôi giành lấy thanh đao ngọc trên tay A Độ, A Độ nhìn tôi đầy ngờ vực.
Tôi từ từ bước gần đám ẩu đả ấy, mớ Thần vũ quân tưởng tôi với Cố Kiếm một giuộc, chúng hướng đầu vũ khí lao tới tấp về phía tôi. Võ công của Cố Kiếm rất cao cường, tuy bị vây hãm, song mỗi lần có kẻ toan tấn công tôi, hắn vẫn có thể tranh thủ chống đỡ, ngăn giết ngay tại chỗ. Hắn xuống tay gọn gàng, không để phí một đường kiếm nào, mỗi một nhát kiếm vung ra, lại có ngay 1 kẻ gục xuống trước mắt tôi.
Dòng máu ấm nóng loang lên mặt mũi, những kẻ đổ rầm cách mặt tôi chừng 1 thước trở lại mỗi lúc một nhiều, như thể đám Thần vũ quân kia không biết sợ chết là gì, người trước ngã xuống kẻ sau tiến lên, song vẫn không tránh khỏi lưỡi kiếm trắng ởn kia, thế rồi bọn họ trút hơi thở cuối cùng chỉ cách mặt tôi bằng một khoảng cách thật gần đến trong gang tấc. Tôi kinh hãi trước cảnh thảm sát vô tội vạ này, tôi chỉ muốn gào lên "Dừng tay đi", thế mà giọng khản đặc, không cách nào thốt lên lời, dường như Cố Kiếm ngoảnh mặt làm ngơ với điều này.
Tôi nghiến răng, vung đao lao về phía hắn, hắn thoắt cái đã đánh tuột thanh đao trên tay tôi, cánh tay buông thõng, đao rơi xuống đất. Chính vào lúc ấy, thứ tiếng nặng nề nào đã xé gió lao đến, dường như có hòn đá to lắm nhằm đúng đầu tôi mà nện, tôi ngước trông lên theo bản năng, A Độ lao về phía tôi, khói bụi cuộn mình bùng lên, âm thanh chát chúa như thể khiến mặt đất phải rùng rình, thứ tiếng ấy tựa muốn đè nát cả ngôi miếu nhỏ này.
- Phần 1 - Thẳng tắp - Chương 1 - 2
- Chương 3 - 4
- Chương 7 - 8
- Chương 9 - 10
- Phần 2 - Vẻ xuân - Chương 11 -12
- Chương 13 - 14
- Chương 15 - 16
- Chương 17 - 18
- Chương 19 - 20
- Chương 21 - 22
- Chương 23 - 24
- Chương 25 - 26
- Chương 27 - 28
- Chương 29
- Chương 30 - 31
- Chương 32
- Phần 3 - Vực nước sâu - Chương 33 - 34
- Chương 35 - 36
- Chương 37 - 38
- Chương 39 - 40
- Chương 41 - 42 (Hết)
- Chương 43 - Ngoại truyện - Hồ Thái Dịch phù dung vẫn nở