Chương 7 - 8
Tỷ ấy thấy sau lưng A Độ là Bùi Chiếu, không kìm được liếc hắn 1 cái, Mễ La có đôi mắt xanh biếc, người ngoài lần đầu thấy tỷ ấy luôn tỏ vẻ kinh sợ. Nhưng hình như Bùi Chiếu lại chẳng hề xê dịch gì, sau này tôi nghĩ, Bùi gia được xem là thế gia vọng tộc ở Thượng Kinh, quen gặp những chuyện lớn rồi. Thượng Kinh phồn hoa, trên phố cũng có con gái người Hồ bán rượu, Bùi Chiếu ắt hẳn có thấy cũng không lấy làm lạ.
Quán rượu này ngoại trừ rượu ngon ra, món thịt bò cũng rất đậm đà. Mễ La sai người thái 1 cân thịt bò cho chúng tôi nhắm rượu, vừa mới ổn định chỗ ngồi, bất chợt trời đổ cơn mưa.
Mưa thu không to nhưng dai dẳng, giọt mưa gõ vào ngói trúc trên mái nhà vọng tiếng boong boong. Bàn kế bên có vài người khách là thương nhân Ba Tư, lúc ấy móc ra 1 ống sáo bằng sắt, nức nở thổi, giai điệu thì kiểu cổ quái đáng yêu vô cùng. Hòa cùng tiếng mưa leng keng trên rìa mái hiên, hóa ra lại có nhịp thướt tha khó nói thành lời
Mễ La nghe tiếng sáo, đặt phịch hũ rượu xuống, vọt lên bàn, nhón chân trần nhảy múa. Dáng dấp tỷ ấy mềm mại khêu gợi, buông mình trong khúc nhạc như thể toàn thân không xương, lại vô cùng yêu kiều. Tiếng chuông vàng trên cổ tay cổ chân sàn sạt như cơn mưa rào, đắm chìm trong âm điệu của sáo, lại như con rắn vàng mặc sức nhảy múa. Đám thương nhân Ba Tư ấy đều vỗ tay tán thưởng, Mễ La nhẹ nhàng chườn xuống bên bàn, bắt đầu những điệu múa quay mòng mọng, vây lấy 3 người chúng tôi,.
Từ lúc rời Tây Lương, tôi chưa từng được tùy ý buông tiếng cười sảng khoái như thế. Động tác của Mễ La thanh tao linh động lại mềm dẻo, tựa một dải lụa tơ tằm, xoắn chặt lấy toàn thân tôi, rồi lại tung tăng dập dờn như cánh bướm. Tôi học theo dáng dấp của tỷ ấy, dùng tay phối hợp với nhạc đệm múa máy kiểu này kiểu nọ, chỉ có thân người là không được nửa phần nhẹ nhàng khéo léo như thế. Mễ La xoay vài vòng, A Độ rút từ trong áo ra một cây khèn tất lật đưa tôi, lúc ấy tôi đột nhiên mừng rỡ, cũng thổi vài điệu hùa theo.
Thương nhân người Hồ nọ thấy tôi thổi khèn tất lật, liền ra sức vỗ tay bắt nhịp. Tôi thổi một bài, ngửi mùi thịt bò trên đĩa thơm phưng phức cuộn dậy, liền nhét cây khèn vào tay Bùi Chiếu: "Ngươi thổi đi! Thổi đi!" Thế rồi nhấc đũa, mau chóng ngốn đồ ăn.
Chẳng ngờ Bùi Chiếu biết thổi khèn tất lật thật, mà còn thổi rất hay. Âm thanh của khèn vốn dĩ dịu dàng mà có nét đau thương, tiếc sáo kia lại lanh lảnh mãnh liệt, 2 loại nhạc khí phối với nhau hóa ra vô cùng ăn khớp. Thoạt đầu là tiếng khèn buồn man mác lại uyển chuyển của Bùi Chiếu đệm với tiếng sáo, sau tiếng sáo của thương nhân người Hồ mới dần dần hòa vào tiếng khèn. Giai điệu từ man mác đã chuyển sang sục sôi hùng dũng, như thể ngoài Ngọc Môn Quan, chỉ thấy khói sương mù mịt trên sa mạc rộng lớn, xa xăm thấp thoáng có tiếng lục lạc vọng lại, một đoàn lạc đà xuất hiện trên cồn cát. Tiếng lục lạc đong đưa càng lúc càng gần kề, gần kề đến mãnh liệt, thế rồi cửa ải hiểm yếu đột nhiên rộng mở, thiên binh vạn mã phất cờ dàn trận, tiếng gào thét, tiếng vó ngựa, khiên giáp va chạm bật thành tiếng, tiếng gió, tiếng thở ra hít vào...vô số âm thành hòa thành chương nhạc ngùn ngụt khắp trời mà cuồn cuộn kéo đến, cùng với nhịp điệu mỗi lúc một tăng, Mễ La cũng múa mỗi lúc một nhanh, lượn vòng tựa cánh thiêu thân, lách qua khiến tôi choáng váng mặt mũi.
Những âm điệu ấy càng thê lương, lại càng giống như cánh diều hâu chao lượn đã 9 ngày 9 đêm, nhìn xuống thiên binh vạn mã trên sa mạc, càng bay càng cao, bay mãi cao mãi, gió lớn xoay vần cát bụi áo ào kéo đến......Cho đến khi tôi ăn no căng cả bụng, đoán chừng con diều hâu ấy cũng đã bay tít đến tận đỉnh núi tuyết rồi, tuyết liên trên đỉnh núi bung nở, diều hâu sải rộng đôi cánh vút qua, có chiếc lông vũ bứt khỏi thân chim, phiêu bồng, tung bay theo chiều gió, một chiếc đáp hạ bên bông tuyết liên. Nhánh lông vũ ấy lạc xuống tuyết, bụi tuyết vần vũ đốm lông ấy trong gió vùi, cánh hoa tuyết liên mơn mởn khẽ rung rinh, gió bụi vạn dặm, cuối cùng tĩnh tại ngay trên chóp núi ấy.....tiếng sáo tiếng khèn bỗng dưng im bặt, trong quán trầm lắng đến nỗi tiếng giọt ranh ngoài hiên vọng vào nghe rõ mồn một. Mễ La nằm mọp trên bàn thở dốc, đôi mắt xanh biêng biếc tụ tích nước dường như sắp chực trào, bảo: "Không thể cố được nữa rồi." Những thương nhân Ba Tư kia ồ cười, có người rót 1 chén rượu đưa cho Mễ La, lồng ngực Mễ La vẫn phập phồng lên xuống, một hơi uống cạn chén rượu, lại quay ra, nở nụ cười xinh tươi với Bùi Chiếu: "Huynh thổi rất hay!"
Bùi Chiếu không đáp lời, chỉ chậm rãi dùng rượu lau sạch cây khèn, sau đó giao lại cho tôi.
Tôi nói: "Quả là khó tin, hóa ra người cũng biết thổi khèn, những người Thượng Kinh biết thổi khèn cũng không nhiều lắm."
Bùi Chiếu đáp: "Phụ thân thần từng đi sứ đến Tây Vực, trong số nhạc khí đem về có khèn tất lật, thời gian rảnh rỗi lúc còn nhỏ, thần từng tự mình học thổi kèn sáo."
Tôi vỗ tay cười nói: "Ta biết rồi, cha người là tướng quân Bùi Huống dũng mãnh. Cha ta và ông ấy từng có lần giao đấu với nhau, cha ta khen ông ấy là người rất có tài dụng binh."
Bùi Chiếu nói: "Là do Khả Hãn quá khen rồi."
Tôi bảo: 'Cha ta không tùy tiện khen người khác đâu, cha ta khen phụ thân ngươi, cũng bởi ông ấy là người có tài thật sự."
Bùi Chiếu nói: "Vâng."
Hắn vừa nói "vâng", tôi đã cảm nhận thấy cơn nhàm chán. Được cái nhóm người Ba Tư lại bắt đầu ca hát, giai điệu du dương mang nỗi buồn thăm thẳm rung động lòng người. Mễ La uống thêm một chén rượu, biết chúng tôi nghe không hiểu ca từ, tỷ ấy dùng chất giọng phổ thông ngọng ngịu, khẽ hát cho chúng tôi nghe. Thì ra, những người thương nhân ấy đang hát rằng:
"Quê tôi có con trăng sáng
trăng tròn rồi khuyết, sao cố hương vẫn khuất bóng.
Đất mẹ tôi có dòng sông sao
sông sao xán lạn, sao đất mẹ khó về.
Gió kia cũng ôn hòa, gió thổi trên đất quê tôi.
Ngày kia vẫn đẹp tươi, ngày chiếu rọi quê nhà tôi.
Rồi đây biết non sông nào chôn cất tôi.
Rồi đây biết phương trời nào gửi tôi về...."
Tôi cất lời hát vài câu theo Mễ La, không nhịn được ủ ê, nghe những người Hồ ấy hát đến âu sầu, bất giác lại uống cạn một chén rượu. Bùi Chiếu khẽ gật đầu, nói rằng: "Nỗi niềm nhớ quê hương ai mà chẳng có. Những thương nhân người Hồ này nhớ cố hương đến thế, vì sao không quay trở về đi?"
Tôi thờ dài: "Trên đời này không phải ai ai cũng giống như ngươi, từ lúc sinh ra đến giờ chưa từng phải rời xa đất nước mình, bọn họ xa xứ, âu cũng là bất đắc dĩ thôi."
Bùi Chiếu trầm ngâm một lúc lâu, thấy tôi lại đổ đầy chén rượu, không kìm được nói: "Công tử uống nhiều rồi."
Tôi hùng hồn nói: "Lấy gì giải sầu? Chỉ có rượu thôi!"
Thấy Bùi Chiếu nhìn tôi dường như rất đỗi kinh ngạc, tôi chìa 3 ngón tay ra, nói: "Đừng cho rằng ta tài giỏi gì, thực ra ta thuộc tổng cộng có 3 câu thơ, câu vừa nãy là 1 trong 3 đấy."
Cuối cùng hắn bật cười.
Rượu Mễ La bán quả nhiên lợi hại, tôi uống có phần quá đà, lúc ra khỏi quán, mặt đất dưới chân nhũn mềm, như thể đang giẫm lên đụn tuyết trên sa mạc. Mưa vẫn đang rơi, sắc trời đổ xuống chạng vạng, nơi mông lung xa xăm có làn mưa đang xoay vần trắng xóa, đem tất thảy thành quách chứa dầy đặc gần 10 vạn hộ dân, đem cả phồn hoa mỹ lệ 2 bên bờ kênh đào, tất thảy đều ấp ủ trong chiếc lồng của ngày mưa. Gió rắc hạt mưa bụi lất phất lên gò má nóng hầm hập, chợt gặp được cơn mát lạnh thân thương, tôi chìa tay đón những bụi nước lấm tấm dường như là bụi lưu ly, có giọt mưa đọng lại trong lòng bàn tay, mưa khẽ khàng va vào da thịt dậy lên cơn ngứa ngáy. Nơi xa xăm thấp thoáng có đốm lửa từ nhà dân, dập dờn đan xen mà lóe sáng, tửu lầu quán trà nơi lề đường phố thị đã sớm chong đèn sáng trưng. Mà thân đò trên con kênh kia cũng khoác lên mình một chuỗi những đèn lồng đỏ, sợi khói vấn vương toát ra từ bếp nhà nào, quẩn quanh trên mui đò trong làn mưa rả rích.
Thượng Kinh đẹp nhất trong cơn mưa phùn, nét đẹp tựa tranh vẽ ấy dù cho họa sư ở Tây Lương chúng tôi có tài năng đến mấy, cũng không thể mường tượng ra được cảnh sắc này, phồn hoa này, ấm nhuần này, nơi đây tựa như thành đô của thiên hạ, tựa như cảnh tiên nơi mà các vị thần trên trời đã đặc cách chiếu cố tạo nên. Thiên triều của Thượng Kinh chính là đây, đô thị náo nhiệt nhất hưng thịnh nhất thiên hạ cũng chính là đây, vạn nước bái kiến, vạn dân cảm mến, nhưng mà tôi biết, tôi không quên được Tây Lương, dẫu cho Thượng Kinh có đẹp đẽ dường nào, nó đâu có phải là Tây Lương của tôi.
Bùi Chiếu tiễn tôi về đến tận cửa bên hông của Đông Cung, thấy chúng tôi lẩn vào xong xuôi, hắn mới quay gót bước đi. Tôi cảm giác mình đã chếnh choáng say, lúc ấy men rượu đã dâng đầy, nhịn không nổi lờm lợm buồn nôn. A Độ vỗ nhẹ lưng tôi, chúng tôi ngồi chồm hỗm trong hoa viên được một lúc lâu, gió thổi cho tỉnh táo hắn rồi mới rón rén mò về trong cung.
Vừa bước qua cửa điện, tôi đã choáng váng cả người, bởi lẽ Vĩnh Nương đang đợi tôi ở trong phòng. Bà ấy vừa nhìn thấy tôi, chẳng chỉ trích chuyện tôi lại lẻn ra ngoài đi chơi, mà cũng không trách móc chuyện cả người tôi xộc mùi rượu, càng không phê bình tôi vận đồ nam, chỉ sa sầm nét mặt, hỏi: "Thái tử phi có biết trong cung xảy ra chuyện rồi không?"
Tôi không thể không hỏi: "Xảy ra chuyện gì thế?"
"Đứa con của Tự Nương...không còn nữa rồi."
Tôi giật mình, khuôn mặt của Vĩnh Nương vẫn hoàn toàn vô cảm, chỉ bảo: "Nô tì tự mình làm chủ, đã sai người tiến cung thăm hỏi Tự Nương rồi. Nhưng chỉ sợ Hoàng hậu sắp tới sẽ truyền Thái tử phi vào cung hỏi chuyện."
Tôi hỏi khó hiểu: "Hoàng hậu muốn hỏi gì ở ta chứ?"
"Hoàng hậu là chủ hậu cung, phàm là khi hậu cung có chuyện, đương nhiên sẽ do Hoàng hậu phân xử. Nội điện bên Đông Cung là do Thái tử phi làm chủ, bây giờ nội điện Đông Cung xảy ra chuyện, hiển nhiên Hoàng hậu sẽ phải hỏi tới Thái tử phi."
Tôi xưa nay đã gặp cái nàng Tự Nương đó đâu, muốn truy hỏi tôi cái gì cơ chứ?
Thế nhưng Vĩnh Nương trước giờ nói năng đều có căn cứ cả, bà ấy bảo Hoàng hậu sắp triệu tôi, vậy thì khẳng định là Hoàng hậu sẽ sai người đến tuyên triệu tôi. Bây giờ cả người tôi như thế này, sao dám đi gặp Hoàng hậu được đây? Tôi vội vã nhảy chồm lên: "Mau! Mau lên! Ta phải tắm rửa! Mau đi sắc cho ta một bát canh giải rượu thật đậm đặc vào!"
Cung nữ vội vàng giúp tôi chuẩn bị, trước nay tôi nào đã từng hớt hải lao vào buồng tắm như thế đâu, thấy nước nóng chỉnh tề rồi, liền lập tức nhảy bổ vào thùng, tự trầm mình trong làn nước. Vĩnh nương thấy tôi cuống cuồng, nhịn không được bảo: "Nếu mà hàng ngày Thái tử phỉ tuân thủ nội quy trong cung, thì bây giờ đâu đến nỗi 'gặp nạn mới ôm chân Phật'?"
"Gặp nạn mới ôm chân Phật" câu nói này quả thực thần kì, trước kia tôi chưa từng cảm thấy hứng thú với những gì Vĩnh Nương nói. Tôi bảo: "Mấy cái nội quy vứt đi ấy, ngày nào cũng phải tuân theo, khéo làm con người ta ngột ngạt chết mất, 'gặp nạn mới ôm chân Phật' thì có gặp nạn mới phải ôm chân Phật chứ, Phật tổ ơi, xin ngài hãy phù hộ độ trì cho con."
Cả khuôn mặt Vĩnh Nương cứng đờ, nhưng mà tôi biết bà ấy đang cố nhịn cười, tôi liền thò cánh tay ướt nhẹp từ thùng tắm ra, kéo gấu áo bà ấy: "Vĩnh Nương à, ta biết bà là người tốt, hàng ngày bà giúp ta khấn thêm mấy lời với Phật tổ nhé, ta nhất định sẽ biết ơn bà đầu tiên."
"A di đà phật! Sao có thể lấy Phật tổ ra nói đùa được! Vĩnh Nương chắp tay trước ngực, "Thật tội lỗi tội lỗi!" Mặc dù bà ấy ngoài miệng thì nói thế, nhưng từ lâu đã gồng mình kìm chế không được bật cười, cung nữ thân cận mang lên bát canh giải rượu, "Mau uống nào, nguội rồi sẽ càng chua."
Canh giải rượu thực sự rất chua, tôi bịt mũi tu một hơi hết sạch. Vĩnh Nương sai người đi xông hương y phục, đợi tôi tắm sạch sẽ xong sẽ đổi áo mới, vừa búi lại tóc, còn chưa đổi xong thoa cài đầu, cung nữ do Hoàng hậu phái đến đã đứng trước cổng Đông Cung.
Tôi bảo Vĩnh Nương ngửi thử xem trên người tôi còn có mùi rượu không, Vĩnh Nương hít hà cẩn thận một hồi, sau giúp tôi xịt thêm bao nhiêu là dầu thơm, lại cho tôi ngậm một viên Hương Hoàn trong veo như tuyết. Viên thuốc ấy đắng lắm, nhưng nhai xong quả nhiên hơi thở có mùi như hoa lan, tương đối hiệu nghiệm.
Lần ấy Hoàng hậu tuyên thiệu cả tôi và Lí Thừa Ngân.
Nhiều ngày rồi tôi chưa gặp Lí Thừa Ngân, thấy hắn dường như lại cao thêm một chút xíu, bời lẽ sắp nhập cung, thế nên hắn đội mũ miện, mặc bộ lễ phục, mang cửu ngọc, thêm trang sức bằng vàng. Nhưng mà hắn cũng chẳng thèm liếc tôi đến 1 cái, đã bước thẳng lên xe.
Lúc triệu kiến Hoàng hậu tôi mới biết chuyện gì đã xảy ra, vốn dĩ Tự Nương bất thình lình chuyển dạ, ngự y chuẩn đoán nguyên do là uống nhầm thuốc trợ sản. Vì thế mà Hoàng hậu tống giam tất cả những cung nữ hầu hạ Tự Nương. Sau đó niêm phong toàn bộ thực phẩm nước uống để bên Dịch đình lệnh – kiểm tra nghiêm ngặt. Sau cùng đã tìm ra cơm kê bị hạ độc, chính là nguyên nhân khiến Tự Nương sảy thai. Hiển nhiên Hoàng hậu nổi giận lôi định, hạ lệnh điều tra vụ này cho ra lẽ, cuối cùng có cung nhân không chịu được hình phạt của tổ Dịch đình, đã thú nhận rằng có người giật dây ả hành động.
Lời Hoàng Hậu vẫn nhã nhặn mà đều đều như một: "Ta đưa Tự Nương vào cung, chỉ lo mẹ con nàng ấy xảy ra sơ sót gì, chung quy tất cả là vì cốt nhục đầu tiên của Đông Cung. Chẳng ngờ mẹ con nàng ấy vẫn bị ám hại, mà lại ở ngay trong cung, ở ngay trước mắt ta. Thiên triều ta mấy trăm năm nay, quả thật nào đã xảy ra sự tình thế này!"
Mặc dù ngữ khí người ôn hòa, nhưng ngôn từ thì nghiêm khắc, trước nay tôi chưa từng được nghe người nói chuyện như thế, không tránh khỏi đến cả thở mạnh cũng không dám, tất cả những ai có mặt trong điện đều mang tâm trạng nín thở lắng nghe giống tôi. Hoàng hậu nói: "Các ngươi có biết, cung nhân kia đã khai kẻ nào đã sai khiến ả không?"
Tôi đánh mắt liếc Lí Thừa Ngân, Lí Thừa Ngân lại không hề nhìn tôi, chỉ lãnh đạm trả lời: "Nhi thần không rõ."
Hoàng hậu lệnh cho cung nữ: "Đọc khẩu cung cho Thái tử cùng Thái tử phi nghe."
Cung nữ đọc to khẩu cung của ả cung nhân kia, tôi nghe mập mờ, lại nghe thêm vài câu nữa, càng không kìm chế được mà ngắt lời: "Bẩm Hoàng hậu, việc này không phải do con làm! Con không hề sai người mua chuộc ả hạ độc Tự Nương."
Hoàng hậu lạnh nhạt phán: "Hiện tại nhân chứng vật chứng đều đủ, ngươi nói không phải ngươi làm, vậy có chứng cớ gì không."
Rõ ràng tôi bị người ta vu oan, tôi nói: "Vậy tại sao con phải hại nàng ta chứ? Con không quen biết nàng ta, thậm chí xưa nay chưa từng gặp gỡ, vả lại từ lúc nàng ta nhập cung, con còn không hề hay biết nàng ta ở đâu...."
Thật sự oan ức cho tôi quá! Chẳng hiểu ở đâu ra lại bị người ta vu cáo hãm hại như thế này.
Hoàng hậu hỏi đến Lí Thừa Ngân: "Ngân Nhi, con thấy thế nào?"
Lí Thừa Ngân cuối cùng liếc tôi 1 cái, rồi quỳ xuống: "Xin tùy mẫu hậu định đoạt."
Hoàng hậu nói: "Thái tử phi tuy có thân phận đặc biệt, lại là công chúa của Tây Lương, chỉ vì 1 lúc hồ đồ mà gây ra họa lớn, dường như không thích hợp để làm chủ Đông Cung nữa."
Lí Thừa Ngân không lên tiếng.
Tôi tức đến toàn thân phát run: "Chuyện này không phải con làm, hôm nay các người có giết con, con thà chết chứ không thừa nhận! Còn như Đông Cung với chẳng không Đông Cung, nói thực con cũng chẳng để bụng, nhưng con tuyệt đối không thể để mặc người ta vu oan cho con như thế này được!"
Hoàng hậu nói: "Khẩu cung ở ngay đây. Ngân Nhi, con nói xem?"
Lí Thừa Ngân thưa: "Xin tùy mẫu hậu định đoạt."
Hoàng hậu khẽ mĩm cười, bảo: "Một ngày phu thê trăm năm ân nghĩa, con không 1 mảy may nghĩ cho ân nghĩa phu thê giữa các con sao?"
Lí Thừa Ngân thấp giọng nói: "Nhi thần không đành, nhưng quốc có quốc pháp, gia có gia quy, nhi thần không dám vì tình riêng mà bất chấp."
Hoàng hậu gật đầu, nói: "Được, được lắm. Quốc có quốc pháp, gia có gia quy. Nói hay lắm." Nụ cười trên mặt người vụt tắt, phân phó cung nữ: "Phế Triệu lương đệ xuống làm thường dân, lập tức trục xuất khỏi Đông Cung!"
Tôi giật mình sửng sốt, thần sắc Lí Thừa Ngân càng như thể bị sét giáng trúng đầu: "Mẫu hậu!"
"Khẩu cung vừa rồi, thực sự không sai, nhưng sau khi khai xong, cung nhân kia đã cắn lưỡi tự vẫn. Đừng tưởng rằng người chết rồi thì không có ai đối chứng, Dịch đình lệnh hành sự quả thực rất đáng khen. Vụ án vẫn được đào sâu điều tra, hóa ra cung nhân này trước kia từng chịu ơn Triệu lương đệ, tội ả đáng phải tru di cửu tộc, nhưng sau khi truy hỏi, ả không hề có thân thích gì, chỉ có 1 nghĩa mẫu. Hiện trong hầm đất nhà ả, lại tìm được 1 trăm đĩnh quan ngân, một trăm đĩnh bạc này đều là quan ngân, có thể sổ sách tra cứu....Sau khi bắt giam và dùng hình đối với ả nghĩa mẫu kia, ả đã khai thì ra Triệu lương đệ từng sai người đến nhà ả. Triệu lương đệ dùng chiêu này một mũi tên trúng hai đích, lại gắp lửa bỏ tay người. Lòng dạ thâm hiểm như thế, quả thật đáng hận. Cứ tiếp tục dung túng thị, chẳng phải sẽ đẩy Hoàng tộc chúng ta vào bờ tuyệt tự hay sao!"
Tôi còn chưa kịp hiểu lời Hoàng hậu nói rốt cuộc có ý gì, Lí Thừa Ngân đã cướp lời: "Xin mẫu hậu nguôi giận, nhi thần nghĩ, chuyện này ắt hẳn có kẻ gài bẫy hãm hại Triệu lương đệ, cần phải cho người truy cứu dần dần. Xin mẫu hậu bớt nóng giận, kẻo ảnh hưởng đến ngọc thể"
Hắn không nói thì may ra, vừa nói đã càng đổ thêm dầu vào lửa.
"Quả nhiên con bị con hồ li tinh ấy làm mụ mị cả đầu óc rồi! Ả Triệu lương đệ ấy, thoạt đầu thì vì chuyện Tự Nương mà gào khóc, giờ lại mua chuộc người hãm hại Tự Nương! Lại còn vu oan giá họa cho Thái tử phi, có tội khắc phải nghiêm trị!"
Lí Thừa Ngân nói không ngớt: "Xin mẫu hậu nguôi giận, nhi thần biết, Triệu lương đệ tuyệt đối không phải loại người đó, mong mẫu hậu minh xét."
"Minh xét cái gì? Đứa con trong bụng Tự Nương nào có gây tổn hại đến ai? Vậy mà ả lại xem như cái gai trong mắt! Loại người như thế ngay từ đầu đã là mấm mống tai họa của giang sơn!" Hoàng hậu càng nói càng phẫn nộ, "Vừa mới đưa khẩu cung của ả cung nhân kia ra, con còn không biện bạch hộ Thái tử phi lấy nửa lời, giờ ta nói với con chân tướng sự việc, con đã liến thoắng nói ả hồ ly kia bị oan. Con bây giờ là thái tử, sau này sẽ lên ngôi vua, sao có thể thiên vị tình riêng như vậy! Cứ thế thì làm sao có thể trị vì! Loại mầm mống tai họa này không thể không diệt trừ, nếu không loại bỏ ả, chỉ e sau này con sẽ bị mê hoặc đến độ bỏ bê thiên hạ!"
Lí Thừa Ngân sợ đến nỗi mặt biến sắc, tôi cũng đành quỳ xuống, thưa: "Xin mẫu hậu bớt giận, Triệu lương đệ ắt hẳn chỉ là một lúc hồ đồ, nếu như ban chết cho Triệu lương đệ, chỉ sợ.... e là..." Vế sau tôi nghĩ không biết nên nói thế nào, Lí Thừa Ngân đã tiếp lời: "Xin mẫu hậu cân nhắc, phụ thân và đại huynh của Triệu lương đệ cùng làm quan tại triều, lại là trọng thần được phụ hoàng trọng dụng, xin mẫu hậu cân nhắc."
Hoàng hậu cười gằn: "Chính con vừa mới nói! Quốc có quốc pháp, gia có gia quy, con không dám vì tình riêng mà bất chấp!"
Mặt mày Lí Thừa Ngân tái mét, chỉ quỳ một chỗ, lại thưa một tiếng: "Mẫu hậu."
Hoàng hậu nói: "Chuyện Đông Cung, vốn là do Thái tử phi phân xử. Ta bao biện làm thay, cũng là bất đắc dĩ. Loại người ác độc như thế, ta đành phải tự quyết vậy." nói rồi sai cung nữ đi truyền lệnh. Tôi thấy sự tình không hay, vội ôm lấy gối Hoàng hậu: "Mẫu hậu có thể để con nói vài lời được không ạ? Mẫu hậu đã nói, chuyện Đông Cung sẽ do con xử lý, con biết xưa nay con làm chưa được tốt, nhưng hôm nay xin mẫu hậu cho con được thưa vài lời."
Dường như Hoàng hậu đã hơi nguôi ngoai, bảo: "Con nói đi."
"Điện hạ thực lòng yêu thích Triệu lương đệ, nếu mà mẫu hậu ban tội chết cho Triệu lương đệ, chỉ sợ điện hạ cả đời này sẽ không thể sống vui vẻ." Tôi cuống cuồng nói thành ra câu cú cứ lộn xộn, "Nhi thần cùng điện hạ kết duyên phu thê đã 3 năm, dẫu không được điện hạ yêu quý, nhưng mà con biết, điện hạ tuyệt đối không thể thiếu Triệu lương đệ được. Nếu mà mất đi Triệu lương đệ, điện hạ sẽ càng không thích con. Còn nữa, có rất nhiều việc con làm không nổi, đều do Triệu lương đệ giúp con, những sổ sách của Đông Cung, con xem không hiểu, cũng giao cả cho Triệu lương đệ quản lý, nếu mà không có Triệu lương đệ, Đông Cung chắc sẽ không thể yên ổn như ngày hôm nay....."
Tôi cuống quá không biết nên nói thế nào, quay ra gọi Vĩnh Nương: "Vĩnh Nương, bà giải thích với Hoàng hậu hộ ta!"
Vĩnh Nương kính cẩn thưa: "Vâng." Dập đầu rồi nói: "Bẩm nương nương, ý của Thái tử phi là, Triệu lương đệ đã hầu hạ Thái tử bao năm nay, dẫu không có công lao, thì cũng có vất vả. Hơn nữa, hàng ngày Triệu lương đệ đối nhân xử thế cũng không hề có khiếm khuyết, đối với Thái tử phi vô cùng tôn kính, lại một lòng phò tá Thái tử phi quản lý Đông Cung, xin nương nương niệm tình tội của Triệu lương đệ chỉ vì 1 khắc hồ đồ mà mở lòng khoan hồng."
Hoàng hậu thong thả nói: "Không thể giữ Triệu lương đệ này lại được, giữ ả lại, Đông Cung càng thêm đại họa. Lúc đầu tại đại lễ sắc phong Thái tử phi, Hoàng thượng từng nói, dâu hiền con thảo như vậy, quả thực là phúc của Hoàng tộc chúng ta. Tiếc thay các con thành hôn đã 3 năm, mà vẫn chưa có con nối dõi, bây giờ lại xảy ra chuyện của Tự Nương, thật khiến ta phiền não."
Lí Thừa Ngân mắt vẫn chăm chăm nhìn sàn nhà, miệng lại nói: "Là nhi thần bất hiếu."
Hoàng hậu bảo: "Nếu con quả thực có lòng hiếu thảo, thì dành thời gian gần gũi Thái tử phi, cách xa ả tiện nhân kia một chút."
Lí Thừa Ngân khẽ dạ: "Vâng ạ."
Tôi còn phải nói gì nữa nhỉ, Vĩnh nương ở đằng sau cứ kéo gấu váy tôi, ý bảo tôi không nên nhiều lời. Khóe môi Lí Thừa Ngân hơi giật giật, nhưng vẫn không hề nói thêm lời nào.
Hoàng hậu nói: "Tất cả đứng dậy đi."
Nhưng Lí Thừa Ngân vẫn quỳ bất động ở đó, tôi cũng không đành đứng dậy.
Hoàng hậu không liếc đến hắn, chỉ tiếp lời: "Chuyện Tự Nương con đừng quá buồn đau, dẫu sao các con hẵng còn trẻ."
Lí Thừa Ngân nín lặng, tôi nghĩ chính hắn mới không buồn đau cái quái gì cả ấy, nếu mà thật sự đau lòng, khẳng định đó là vì Triệu lương đệ.
Hoàng hậu lại quyết: "Tự Nương xem ra cũng thật đáng thương, bước tiếp theo phong nàng ta làm Bảo lâm vậy."
(*chú: Bảo Lâm: thiếp của thái tử, vợ cả là Thái tử phi, vợ 2 Lương đệ, vợ 3 Bảo Lâm)
Lí Thừa Ngân mặt mày cơ hồ xám xịt như tro: "Nhi thần không đồng tình....Nhi thần tuổi còn trẻ, Đằng thiếp tại Đông Cung còn nhiều, nhi thần cảm thấy làm như vậy là không thích đáng."
Tôi biết hắn từng hứa với Triệu lương đệ, sẽ không nạp thêm thị thiếp nào nữa, vậy nên hắn mới nói như thế. Quả nhiên Hoàng hậu lại nổi giận đùng đùng, nói: "Tương lai con sẽ làm Hoàng đế, sao có thể thiếu hiểu biết như thế."
Hoàng hậu chuyển sang tôi: "Thái tử phi đứng dậy đi, giúp ta đi thăm nom Tự Nương, an ủi nàng ta mấy câu."
Tôi càng khó xử hơn, cũng rõ ý người muốn xua tôi đi để giáo huấn Lí Thừa Ngân, thế là tôi liền đứng dậy, hành lễ rồi cáo lui.
Thái giám dẫn tôi đến nơi Tự Nương ở, nơi đó là một ngự hoa viên vắng lặng, lần đầu tiên tôi được gặp cái người tên Tự Nương ấy. Nàng ta nằm trên giường, thần sắc võ vàng, nhưng vẫn có thể nhận ra, vốn dĩ nàng ta cũng có nét khá là xinh đẹp. Cung nhân hầu hạ nàng ta bẩm báo: "Thái tử phi đến rồi." Nàng ta vật lộn một hồi muốn gượng dậy, Vĩnh Nương theo sau tôi vội vàng tiến lên, ấn nàng ta nằm xuống.
Tôi cũng không rõ nên an ủi ra sao nữa, chỉ lập lại những lời Hoàng hậu vừa mới nói: "Muội đừng quá đau buồn, dẫu sau muộn vẫn còn trẻ."
Tự Nương ngấn lệ nói: "Đa tạ Thái tử phi, nô tì phúc phận bạc bẽo, giờ chỉ mong được ban chết."
Tôi ngượng ngập nói: "Kỳ thực....làm gì mà lúc nào cũng muốn chết chứ, muội xem, không phải ta vẫn còn rất tốt...."
Tôi nghe Vĩnh Nương ho khan 1 tiếng, biết ngay mình lại nói sai rồi. Tôi bèn hỏi: "Muội muốn ăn gì? Ta có thể bảo người làm rồi đem đến." Lần trước lúc tôi bệnh, Hoàng hậu cũng phái người đến thăm tôi, luôn miệng hỏi tôi muốn ăn gì hay không, có thiếu thứ gì hay không. Thực ra trong Đông Cung thì có thiếu cái gì nào? Chắc là mượn mấy lời này để biểu thị ý thăm nom đặc biệt thôi. Tôi không biết phải hỏi thăm người ốm như thế nào, đành y chang khuôn mẫu mà làm vậy.
Tự Nương thưa: "Đội ơn Thái tử phi."
Tôi thấy dáng vẻ nàng ta cứ thảm thương tê tái, dường như rất chán chường ủ ê. Sau thì vẫn để Vĩnh Nương tiến lên, tuôn một tràng dài những lời an ủi. Tự Nương không ngớt lau nước mắt, chúng tôi đã rời đi rồi nàng ấy vẫn còn nằm khóc.
Lúc chúng tôi quay trở về trong cung, Hoàng hậu đã lệnh người thảo chiếu chỉ sắc phong Bảo Lâm, sắc mặt Lí Thừa Ngân khi đó xem ra rất khó coi, Hoàng hậu đương nói đoạn: "Đông Cung cần phải hòa thuận, Thái tử phi tính khí còn trẻ con, nhiều chỗ chăm nom không được chu đáo, có thêm người giúp Thái tử phi cũng là một ý tốt." Hoàng hậu ngước lên nhìn đúng lúc tôi bước vào, liền vẫy tay tỏ ý, tôi lập tức hành lễ với người, người không để cung nữ bên mình dìu tôi, mà lại đích thân dang cánh tay đỡ tôi dậy, khi ấy quả thật vừa mừng vừa lo. Mọi lần Hoàng hậu đều toát lên vẻ khoan thai đoan trang, ít khi tỏ vẻ thân mật với tôi như thế này.
"Còn về Triệu lương đệ, tội chết có thể miễn, nhưng tội sống khó tha." Hoàng hậu lạnh nhạt nói, "Cứ phế thành thường dân, giam lỏng 3 tháng, Thái tử không được phép đi thăm nom, bằng không ta sẽ hạ chỉ trục xuất ả khỏi Đông Cung."
Tôi thấy khóe mắt Lí Thừa Ngân giật liên hồi, nhưng hắn vẫn cúi gằm, ủ rũ lên tiếng: "Xin vâng."
Vừa ra khỏi Cung, Lí Thừa Ngân đã giáng ngay cho tôi một cái bạt tai, tôi không kịp đề phòng, bất thình lình bị hắn tát một cái thành ra đờ đẫn như trời trồng
A Độ tuốt đao nhảy vọt lên, bỗng chốc "soạt" rồi mũi đao sắc lẹm đã kề ngay gáy hắn, Vĩnh Nương giật mình gào lớn: "Không được!" Chưa đợi bà ấy nói dứt lời, tôi đã hung hăng vả lại Lí Thừa Ngân. Mặc dù tôi không biết võ công, nhưng tôi cũng không phải kẻ dễ chọc, hắn đã dám đánh tôi, đương nhiên tôi phải đánh trả rồi!
Lí Thừa Ngân lạnh lùng cười: "Hôm nay được dịp tốt để giết ta rồi đấy!" Hắn chỉ vào mặt tôi mà nói: "Loại nữ nhân nham hiểm như ngươi, ta biết chính ngươi! Ngươi dựng lên cái bẫy này, đã trừ khử được đứa con con bụng Tự nương thì chớ, lại còn hại đến Sắt Sắt."
Tôi ức đến nỗi cả người run lên bần bật, nói: "Điện hạ dựa vào đâu má dám nói vậy?"
"Cả ngày người chỉ giả bộ đáng thương trước mặt mẫu hậu, làm ra vẻ ngây thơ, trả vờ cái gì cũng không biết! Đừng tưởng ta không hiểu, ngươi tố cáo ta với mẫu hậu, nói ta lạnh nhạt với ngươi. Ngươi đố kị Sắt Sắt, thế nên mới bầy ra độc kế này nhằm mưu hại nàng ấy, rõ ràng ngươi còn ác độc hơn tất thảy loại rắn độc trên đời này! Bây giờ ngươi vừa lòng rồi chứ, rõ rành rành ngươi muốn tống cổ Sắt Sắt, rõ rành rành ngươi muốn chia cắt bọn ta! Nếu mà Sắt Sắt có mệnh hệ nào, ta tuyệt đối không bỏ qua cho ngươi, ta nói cho ngươi biết, chỉ cần ta đăng cơ Hoàng đế, ta lập tức sẽ phế bỏ ngươi!"
Tôi bị hắn sỉ vả đến nỗi mê muội, tôi gạt phăng A Độ ra, đứng ngay trước mặt Lí Thừa Ngân: "Thế bây giờ ngươi phế ta luôn đi, ngươi tưởng ta thích gả cho ngươi lắm đấy à? Ngươi tưởng ta thèm vào cái địa vị Thái tử phi này lắm đấy à?Namnhi của Tây Lương chúng ta hàng vạn người, ai ai cũng là anh hùng suất chúng, nào có giống như cái loại ăn hại như nhà ngươi! Ngoại trừ biết đọc thi văn ra, ngươi còn biết làm gì không hả? Ngươi bắn tên chính xác còn không bằng ta đấy nhé! Khinh kỵ cũng không bằng được ta! Nếu mà đang ở Tây Lương, loại nam nhân như ngươi ấy à, đến vợ còn khó lấy đấy, ai mà thèm lấy ngươi!"
Lí Thừa Ngân phủi áo bỏ đi trong cơn giận dữ bừng bừng
Trong lòng tôi chợt căm căm từng cơn, ba năm này, chúng tôi cãi nhau liên miên, tôi biết hắn không ưa gì tôi, nhưng tôi nào có ngờ hắn lại hận tôi, ghét tôi, không tiếc lấy một từ ngữ nào tồi tệ nhất để mà rủa sả tôi. Vĩnh nương kéo tôi lên xe, khẽ vỗ về: "Thái tử cũng chỉ vì Triệu lương đệ mà giận cá chém thớt với Thái tử phi, Thái tử phi đừng để bụng."
Tôi biết chứ, tôi đương nhiên biết chứ, hắn cũng vì cảm thấy Triệu lương đệ chịu phải oan khiên nên mới thỏa sức trút giận lên người tôi, thế nhưng quả thực tôi có làm gì đâu, hắn dựa vào cái gì mà giận lây sang tôi nào?
Hắn bảo tôi đố kị với Triệu lương đệ, tôi có đôi chút ghen tỵ với ả thật, thì là tôi ghen tỵ có người đối tốt với ả đấy, tốt đến chuyện gì lúc nào cũng đặt cả niềm tin ở ả, bảo vệ ả, chăm sóc ả. Nhưng ngoại trừ những việc đó ra, tôi thèm vào mà ghen tỵ với những thứ khác, càng không nghĩ đến việc đi ám hại ả.
Triệu lương đệ nhìn thì có vẻ ôn hòa, lúc đến chơi bài với tôi, tôi cảm thấy ả cùng lắm thì là một nữ nhân có phần sắc sảo mà thôi, sao lại có thể làm chuyện nhẫn tâm như thế chứ? Hơn nữa tôi không cho rằng cách của Hoàng hậu là một ý hay ho gì cả, xem ra Tự Nương là người yếu đuối nhu nhược, dù cho được phong làm Bảo lâm, Lí Thừa Ngân cũng không ưa nàng ta, trong Đông Cung chỉ tổ có thêm một người đáng thương mà thôi.
Đêm thâu, tôi cứ nghĩ mãi chuyện này mà thành ra mất ngủ, buộc lòng phải bật thẳng dậy, hỏi A Độ: "Ngươi thấy Triệu lương đệ giống người xấu không?"
A Độ gật gật, rồi lại lắc lắc.
"Nữ nhi Trung Nguyên nghĩ gì nhỉ, sao ta chẳng hiểu nổi. Đàn ông Tây Lương chúng ta mặc dù cũng được nạp nhiều thiếp đấy, nhưng mà nếu cả nhà không hòa hợp, vẫn có thể đi lấy người khác."
A Độ gật đầu.
"Vả lại Lí Thừa Ngân thì có gì hay ho đâu chứ, trừ cải vẻ ngoài cũng tàm tạm ra, thì tính khí xấu xa, thái độ lại nhỏ nhen...." Tôi buông mình nằm xuống, "Nếu bảo ta tự mình chọn, ta thèm vào mà lấy hắn."
Tôi nói toàn những lời thật lòng, nếu mà bảo tôi tự mình chọn lựa, tôi không bao giờ để bản thân rơi vào bước đường thảm thương thế này. Rõ ràng trong lòng hắn đã có người, tôi lại vẫn lấy hắn, thành ra hắn vừa ghét tôi thì chớ, cuộc sống của tôi cũng trở nên chật vật. Giờ Triệu lương đệ bị giam cầm, Lí Thừa Ngân hận thấu tôi rồi, tôi mà lại muốn lấy một người chồng mang thù với mình à.
Nếu như để tôi được tự mình chọn lựa, tôi thà gả cho 1 người đàn ông Tây Lương bình thường, ít ra người ta sẽ thật lòng thích tôi, rong ngựa đèo tôi, đưa tôi đi săn lợn, thổi khèn cho tôi nghe, thế rồi tôi sinh cho người ta 1 đàn trẻ nhỏ, cả nhà vui vẻ êm đềm sống qua ngày....
Thực ra cuộc sống ấy, tôi biết mãi mãi chỉ gặp được trong mơ mà thôi.
A Độ bỗng nhiêm kéo tay tôi, chỉ trỏ ra phía cửa sổ.
Tôi kinh ngạc vô cùng, đẩy mở cánh cửa, trên mái ngói lưu ly ở tòa điện đối diện có một người đang ngồi.
Người đó vận một bộ đồ trắng, nổi bật trên nền ngói lưu ly màu đen, vô cùng bắt mắt.
Tôi nhận ra kẻ đó, lại là cái gã Cố Kiếm kia đây mà!
Tôi đang lưỡng lự xem có nên hô hào "có thích khách" hay không thì hắn đột nhiên đã như một cánh chim, trượt xuống từ nóc điện như thể cưỡi gió, khẽ khàng lanh lẹn đáp ngay dưới bậu cửa sổ trước mặt tôi.
Tôi trợn mắt với hắn: "Ngươi muốn làm gì?"
Hắn không đáp lời, chỉ có ánh nhìn dán trên mặt tôi. Tôi biết trên mặt mình còn có vết hơi sưng, về đến Đông Cung là Vĩnh Nương đã lấy ngay trứng gà luộc lăn cho tôi cả nửa buổi, thế mà trên gò má vẫn còn y nguyên dấu tay đỏ lựng, mãi không tan. Nhưng mà tôi cũng đâu có thiệt, cái tát kia của tôi khẳng định cũng khiến hắn sưng vù cả mặt, bởi lẽ lúc đó tôi vận toàn bộ sức lực, mạnh đến nỗi lòng bàn tay cũng tê rần.
Giọng hắn chỉ mang một nỗi ưu tư lạnh nhạt, dường như đang gồng mình kiếm nén điều gì đó: "Ai đánh nàng thế?"
Tôi xoa xoa gò má, nói: "Không sao, ta cũng đánh trả lại rồi."
Hắn khăng khăng truy hỏi bằng được: "Là ai?"
Tôi hỏi: "Ngươi hỏi làm cái gì?"
Trên mặt hắn vẫn chỉ có vẻ vô cảm: "Đi giết hắn."
Tôi hết cả hồn, hắn lại hỏi: "Nàng đã là Thái tử phi rồi, ai dám đánh nàng? Là Hoàng đế? Hay là Hoàng hậu? Hoặc kẻ nào khác chăng?"
Tôi lúc lắc đầu, nói: "Ngươi đừng có hỏi, ta sẽ không nói với ngươi đâu."
Vậy mà hắn vẫn hỏi: "Nàng bằng lòng đi cùng ta không?"
Cái gã này đúng là quán đản thật đấy, tôi lắc đầu, dợm đóng cửa lại, hắn giơ tay chặn đứng cánh cửa sổ, hỏi tôi: "Nàng vẫn còn giận ta ư?"
Tôi chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì cả: "Vì sao ta phải giận ngươi?"
"Chuyện 3 năm trước, lẽ nào nàng không giận sao?"
Tôi thành thật nói với hắn: "Ta quả thực không quen ngươi, ngươi đừng nửa đêm nửa hôm đến đây nói những chuyện khó hiểu này nữa. Nơi đây là Đông Cung, nếu như người ta phát hiện ra, sẽ bị coi như thích khách rồi thì bị ngàn tên bắn chết mất."
Hắn cười đầy thách thức: 'Đông Cung ấy à? Cho dù có là Hoàng cung, ta thích vào thì vào, thích ra thì ra, ai làm gì được ta nào?"
Tôi trợn tròn mắt nhìn hắn, tay này tưởng như ngông cuồng đến cực điểm rồi, nhưng mà với võ công của hắn, đoán chừng Hoàng cung đối với hắn mà nói, đúng thật muốn vào thì vào, muốn ra thì ra. Tôi thở dài: "Rốt cuộc ngươi muốn gì?"
"Ta đến thăm nàng." Hắn hỏi lại một lần nữa: "Nàng bằng lòng đi cùng ta không?"
Tôi lắc đầu.
Hắn tỏ ra tức giận, bỗng đâu lại nắm chặt tay tôi: "Nàng sống ở đây chẳng vui vẻ gì, vì sao không nỡ bỏ đi với ta?"
"Ai nói ta sống không vui vẻ đấy? Vả lại ngươi là ai, sao cứ bận tâm chuyện ta sống vui hay không vui thế?"
Hắn dang tay lôi kéo tôi, tôi khẽ gào lên: "Bỏ tay ra!" A Độ vọt lên, hẳn chỉ phẩy nhẹ tay áo một cái, A Độ đã loạng choạng bật lui vài bước, không đợi A Độ lại lao đến, hắn liền kéo tôi, lúc ấy thân tôi cảm giác như nhẹ bẫng, tựa một con diều giấy bị hắn kéo ra khỏi cửa sổ. Khinh công của hắn cao siêu vô cùng, mang theo tôi mà như thể đang lướt trên gió, tiếng gió không ngừng vỗ bên tai, chẳng mấy chốc chân cũng đã có điểm đáp hạ, nhưng lại là mái ngói bằng lưu ly vừa trơn vừa lạnh. Hắn bắt cóc tôi phi lên đến tận chóp đỉnh của chính điện trong Đông Cung, địa thế nơi ấy là chỗ cao nhất trong Đông Cung, phóng tầm mắt nhìn ra xa, cung khuyết thâm trầm, đền điện chập chùng, đầu củng mái cong, những gờ mái ngói bằng lưu ly, tất thảy dường như đang ẩn mình trong sắc đêm im lìm mà đen tựa nghiên mực.
Tôi vùng khỏi tay hắn, suýt nữa lại trượt chân, buộc lòng phải trợn trừng mắt đối diện: "Chung quy thì người muốn làm gì?"
Hắn lại chỉ xuống dải cung điện ngay dưới chân chúng tôi, nói: "Tiểu Phong, nàng nhìn xem, nàng nhìn nơi này mà xem, tường cao chót vót, bốn bề bao bọc, nơi đây như miệng giếng sâu không thấy được mặt trời, nơi đây làm sao có thể giam giữ nàng?"
Tôi rất không ưa cách hắn gọi tên tôi, điều đó cứ khiến tôi có một loại cảm giác không thoải mái gì, tôi nói: "Thế thì cũng chẳng phải việc của ngươi."
Hắn bảo: "Rốt cuộc phải làm sao nàng mới chịu theo ta?"
Tôi lườm hắn: "Ta tuyệt đối không theo ngươi đâu, ngươi đừng tưởng bản thân ngươi có võ công cao cường, ta mà la hét ầm ĩ lên, kích động đến Vũ lâm quân, một phát ngàn mũi tên bắn là ngươi sẽ biến thành con nhím ngay đấy."
Hắn cười nhạt, nói: "Nàng quên ta là ai rồi sao? Một khi ta đã có kiếm trong tay, nàng có gọi toàn bộ Vũ lâm quân trong Đông Cung đến, may ra mới đọ được nửa phần ta."
Tôi suýt thì quên khuấy mất, độ ngạo mạn của gã cao đến cực điểm. Thế là tôi nhanh trí giở chiêu vuốt mông ngựa: "Võ công của ngươi cao cường như thế, có phải là vô địch thiên hạ rồi không, xưa nay chưa từng thua ai bao giờ à?"
Hắn chợt bật cười, nói: "Nàng thật sự không nhớ được chút nào sao? Ba năm trước ta thua dưới kiếm của nàng."
Tôi kinh hãi đến nỗi cằm sắp rớt mất tiêu, chỉ hẳn vào mũi mình, run run: "Ta? Thua ta á?" Mấy lời này cũng đáng sợ quá, tôi thậm chí một tí xíu võ công cũng không biết, hắn chỉ vẩy một ngón tay thôi, đã đủ quật nhào tôi xuống đất rồi, sao có thể đọ kiếm để rồi thua tôi được chứ? Tôi đến chuôi kiếm cầm thế nào còn không hiểu đây.
"Đúng thế." Hắn hết sức bình tĩnh, dường như lại rất thản nhiên, "Lần đó đọ kiếm, chúng ta đã lấy cả đời ra đặt cược, ta thua nàng thì ta sẽ phải làm phu quân của nàng, cả đời yêu thương nàng, trân trọng nàng, đi theo nàng."
Miệng tôi ngoác to đến nổi khẳng định có thể nuốt được ngay 1 quả trứng gà, không kìm được hỏi: "Thế lần đó nếu mà ta thua thì sao?"
"Nếu mà lần đó là nàng thua, đương nhiên nàng sẽ phải gả cho ta, để ta cả đời này yêu thương nàng, trân trọng nàng, đi theo nàng."
Tôi lại run lên cầm cập, cụ lớn ơi, đùa người ta cũng đừng đùa kiểu này chứ.
Hắn lại nói: "Ta cũng chẳng nhường gì đâu, nhưng nàng vừa ra tay đã đoạt được kiếm của ta, nên lần đó đành coi như ta thua nàng vậy."
Tôi có thể đoạt được kiếm của hắn á? Đánh chết tôi cũng không tin đâu nhé!
Tôi giải quyết dứt khoát một chặp luôn: "Cho dù bất kể lần đó ai thua ai thắng, cũng chỉ là mấy chuyện ta không nhớ mình từng trải qua, vả lại ta nào có quen ngươi, chỉ dựa vào cái miệng của ngươi ấy à, ta chẳng thèm tin."
Hắn cười nhàn nhạt, lấy từ trong tay áo ra một đôi ngọc bội, nói: "Lúc ta và nàng ước định cả đời, từng chia đôi chim uyên ương này ra thành 2 nửa, chỗ ta chỉ có 1 mảnh ngọc bội, mảnh kia ở chỗ nàng. Đôi ta vốn dĩ đã ước hẹn, ngày 15 tháng 6 thời khắc trăng tròn nhất, ta ở ngoài Ngọc Môn Quan đợi nàng, ta sẽ dẫn nàng về nhà ta."
- Phần 1 - Thẳng tắp - Chương 1 - 2
- Chương 3 - 4
- Chương 7 - 8
- Chương 9 - 10
- Phần 2 - Vẻ xuân - Chương 11 -12
- Chương 13 - 14
- Chương 15 - 16
- Chương 17 - 18
- Chương 19 - 20
- Chương 21 - 22
- Chương 23 - 24
- Chương 25 - 26
- Chương 27 - 28
- Chương 29
- Chương 30 - 31
- Chương 32
- Phần 3 - Vực nước sâu - Chương 33 - 34
- Chương 35 - 36
- Chương 37 - 38
- Chương 39 - 40
- Chương 41 - 42 (Hết)
- Chương 43 - Ngoại truyện - Hồ Thái Dịch phù dung vẫn nở