Trăng vàng Tà Nung
Thịnh nhớ mùi mít chín, nhớ mùi khói của củi cà phê và đặc biệt hơn là nhớ mùi tóc Thảo.
***
Ánh trăng vàng vương vương trên hàng cà phê. Có chú chuồn chuồn ớt đậu trên cây đang lim dim ngủ. Tà Nung mùa nay đang vào vụ cà phê. Hàng xoài bên đường không ngừng tỏa mùi hương trái chín. Thịnh bước trên con đường quen thuộc mà lòng không ngừng suy nghĩ. Đã mười năm rồi! Từ ngày Thịnh theo ba mẹ về với Hòn Ngọc Viễn Đông mưu sinh hôm nay mới có dịp quay trở lại thăm Tà Nung, thăm bác Hai. Tà Nung giờ đã thay đổi nhiều! Mười năm trước, Tà Nung chủ yếu chỉ là những căn nhà bằng gỗ xen lẫn đâu đó là những căn nhà tường cấp bốn. Bây giờ Tà Nung rất nhiều nhà tầng, biệt thự khang trang. Thế nhưng, căn nhà bác Hai không đổi khác là mấy. Vẫn dáng nhà xưa cũ nhưng thay vì dựng bằng gỗ thì bây giờ nhà được xây tường quét sơn xanh. Căn nhà xinh xinh nằm dưới tán cây mít nồng nàn mùi hương. Thấy bác Hai trong nhà, Thịnh gõ cửa và cất tiếng :
- Con chào bác Hai, thưa bác con mới tới!
Ôi! con đấy ư! Vào nhà đi con!
Rồi không đợi Thịnh nói thêm, bác Hai liền đưa tay :
- Con đưa đồ đây cho bác rồi đi rửa mặt đi!
- Dạ!
Sau khi rửa mặt xong, Thịnh được bác Hai đưa vào phòng ngủ. Bác Hai bỏ mùng cho Thịnh. Có tiếng ngáy nhè nhẹ của anh họ ở phòng kế bên. Tuy mệt nhưng Thịnh vẫn cảm nhận được mùi thơm nhè nhẹ của hương cà phê quyện lẫn với tiết trời se se của Tà Nung. Thịnh cất mình lên chiếc giường và nhanh chóng chìm vào một giấc ngủ sâu.
Khi ánh mặt trời chênh chếch trên ngọn mít thì Thịnh thức giấc. Bác Hai đang đun nước nấu chè xanh ở dưới bếp. Nhà nào ở Tà Nung bây giờ cũng có bếp ga nhưng hầu như còn có thêm một bếp nấu củi song hành. Củi thường là những cành cây cà phê khô ở trong vườn. Thịnh vẫn thường hay gọi mùi khói của củi cà phê là mùi Tà Nung. Bởi nếu quần áo ám phải khói củi cà phê thì dù đi đâu cũng có mùi rất đặc trưng không lẫn vào đâu được.
Thịnh cầm lấy ly nước chè xanh từ tay bác Hai và uống một ngụm. Nước chè nóng và thơm quá! Đã lâu rồi mới có ly nước chè ngon như thế. Lá chè được hái từ sáng sớm nên đọng được vị sương trời. Cộng thêm chất ngọt của nước vùng đất đỏ ba-zan tạo cho chè xanh Tà Nung có mùi quyến rũ của cô gái dân tộc K'Hor. Thịnh vừa uống nước vừa đắm chìm suy nghĩ về quá khứ ...
Hơn mười năm về trước, gia đình Thịnh cũng ở Tà Nung. Bố Thịnh là thanh niên xung phong ở Sài Gòn lên còn mẹ Thịnh là dân di cư ở Thanh Hóa vào. Hai người gặp nhau nên duyên vợ chồng. Thịnh chào đời và lớn lên trên mảnh đất cao nguyên đầy nắng gió này.
Ở gần nhà Thịnh có cô bé hàng xóm có đôi mắt to tròn, long lanh như nước hồ Tà Nung. Cô có tên rất đẹp : Phương Thảo. Nghĩa của tên có nghĩa là cỏ thơm. Thảo là con dì Thu. Thảo nhỏ hơn Thịnh bốn tuổi. Hồi đó, dì Thu và mẹ Thịnh phải đi làm ở nông trường cà phê nên hai đứa thường ở nhà chơi với nhau. Có lúc hai đứa ra vườn hái sim chín về ăn. Cũng có lúc hai đứa lấy đất bỏ vào ống diêm để cho ra đời những viên gạch đất dùng xây nhà đồ chơi của hai đứa. Nhớ có lần, Thịnh rủ Thảo đi xuống thác Voi chơi. Thác Voi là một thác rất đẹp của Tà Nung. Dì Thu và mẹ Thịnh đi làm về không thấy hai đứa đâu. Hai người cuống lên tìm. Một hồi lâu sau mẹ hai đứa mới thấy hai đứa đang chơi bên thác. Thế là hai đứa được một trận đòn nhớ đời.
Không biết ở vùng khác thế nào chứ ở Tà Nung có nhiều loại trái cây. Đến mùa cà phê nở hoa kết trái cũng là mùa trái cây chín rộ, mọi người xuống rẫy làm cà phê thì cứ thế hái về ăn. Mít ở đây thơm và ngon lắm. Mít ở Tà Nung có hai loại là mít nghệ và mít dừa. Mít nghệ thì chắc ai cũng biết bởi nó có màu vàng như mít Thái còn mít dừa màu trắng như cùi dừa. Mít dừa ăn xong vịt ngọt cứ đọng nơi đầu lưỡi. Vì thế, mít dừa cứ ăn hoài ăn mãi mà không thấy chán. Bơ thì nhiều vô kể. Có cây bơ cho ra cả mấy tạ quả. Tiền bơ thu hoạch được có khi còn nhiều hơn tiền làm lúa của nhiều hộ dân ở vùng đồng bằng. Còn thơm thì mọc đầy nơi hàng rào. Người nào muốn ăn thì cứ xuống chặt thơm về là có ăn. Thịnh và Thảo cứ thế lớn dần lên trong mùi thơm của hoa cà phê. Hoa cà phê trắng muốt và tinh khôi như con người của Thảo. Thịnh rất thích mùi hương của tóc Thảo. Đó là mùi thơm của hoa bưởi mà mẹ Thảo vẫn thường hay gội cho Thảo.
Thời gian cứ thế dần trôi, hoa cà phê nở mùa này rồi đến mùa khác. Năm mười bốn tuổi thì Thịnh phải theo cha mẹ về Sài Gòn. Bà nội Thịnh muốn gia đình Thịnh về Sài Gòn sống chung. Bà nội Thịnh nay đã già cần có người chăm sóc. Hôm chia tay, Thịnh thấy Thảo buồn lắm. Thảo nói với Thịnh có dịp thì Thịnh lên Đà Lạt chơi và đừng quên mảnh đất Tà Nung. Thịnh trong lòng cũng đầy lưu luyến. Thịnh nhớ mùi mít chín, nhớ mùi khói của củi cà phê và đặc biệt hơn là nhớ mùi tóc Thảo.
- Uống nước nữa đi con!
Bác Hai cắt dòng suy nghĩ của Thịnh bằng lời nói hiền từ ấm áp.
- Dạ!
- Bác có biết Thảo bây giờ làm gì không bác?
- Thảo con dì Thu hả? Nó đang là sinh viên Đại học Đà Lạt đó con. Con bé đó siêng! Gớm, mới nghỉ hè mà đã theo mẹ đi làm nấm rồi! Nó cũng hay sang chơi với bác lắm! Có khi chút nữa ăn sáng xong rồi con theo bác sang nhà dì Thu chơi nhé!
- Dạ!
Trời Tà Nung hôm nay đẹp quá! Có đám mây trắng vắt mình qua ngọn núi ở phía chân trời. Trên ngọn cây xoài có chú chào mào bụng trắng đang lanh lảnh hót. Thịnh theo chân bác Hai sang nhà dì Thu. Trong lòng Thịnh đầy ắp những suy nghĩ. Không biết bé Thảo của nó ngày xưa bây giờ ra sao? Thảo còn nhớ nó nữa hay không? ....
- Dì Thu ơi! Có thằng Thịnh tới thăm dì này!
- Thịnh hả! Lâu quá rồi con nhỉ? Vào nhà đi con! Bác và con ăn cơm gì chưa? Để dì dọn.
- Cám ơn dì! Hai bác con tôi ăn rồi!
Bác Hai cất lời.
Thịnh theo bác Hai vào nhà nhưng không thấy Thảo đâu. Thịnh và bác Hai ngồi chơi với dì Thu một hồi thì Thịnh cất tiếng :
- Bé Thảo đâu hả dì?
- Thảo hả con? Nó đang làm nấm sau vườn con à! Hay con ra chơi với nó đi Thịnh! Để dì nói chuyện với bác Hai con một lúc.
Thịnh dạ một tiếng rồi cất bước theo lối mòn ra vườn nấm nhà Thảo. Đường ra nhà nấm có một dãy cỏ bông may trắng. Trên đám cỏ có mấy chú bướm trắng đang dập dờn. Thịnh đến nhà nấm thì thấy một cô gái đang vận chiếc áo công nhân sờn vai. Thịnh cất tiếng :
- Thảo hả em! Còn nhớ anh không?
Thảo buông vòi nước tưới nấm xuống, đứng sững người một lúc rồi reo lên :
- A! Anh Thịnh! Anh mới về hả!
Lúc bấy giờ, Thịnh mới kịp nhìn kỹ Thảo. Vẫn là cặp mắt long lanh như ngày xưa. Đôi mi dài cong vút. Đôi má phớt hồng của cô gái Đà Lạt. Thảo trông thật xinh xắn và dễ thương. Đôi giọt mồ hôi lấm tấm trên trán càng làm tôn thêm vẻ đẹp của người con gái chịu thương chịu khó của vùng đất ba-zan.
Thịnh theo Thảo và nhà nấm để hái nấm. Chẳng mấy chốc mấy sọt nhựa đựng nấm đã đầy. Thịnh và Thảo đóng nấm vào bao. Hai đứa nhắc về quá khứ hai đứa xuống thác Voi chơi bị đòn mà phá lên cười. Thịnh nhắc lại chuyện Thảo hay gội bằng hoa bưởi và hỏi :
- Em còn hay gội bằng hoa bưởi nữa không?
- Có chứ anh! Cứ đến mùa bưởi là em ra vườn hái hoa gội anh à!
Vừa nói, Thảo vừa buông mái tóc vấn trên đầu xuống. Có một mùi thơm nhè nhẹ phảng phất. Thịnh thấy trong lòng xao xuyến kì lạ.
Trưa hôm ấy, ánh mặt trời lên cao. Đàn chào mào bụng trắng vẫn hót lanh lảnh khắp vườn. Thịnh và bác Hai chào dì Thu và Thảo ra về. Trước khi về Thịnh xin phép dì Thu tối thứ bảy cho Thịnh đưa thảo đi chơi. Dì Thu vui vẻ đồng ý làm Thịnh và Thảo mừng lắm.
Thứ bảy, ánh trăng Tà Nung vương khắp vườn. Xa xa các ngôi sao đang lung linh. Trên con đường làng vắng vẻ có một đôi tình nhân tay trong tay. Mùi hương bưởi, hương cà phê đan quyện với nhau tạo cho Tà Nung một mùi thơm quyến rũ đấy mê hoặc.
- Anh lúc nào về lại Sài Gòn? Thảo hỏi.
- Mai anh phải về rồi.
- Sao anh phải về sớm thế?
- Lần này anh chỉ nghỉ phép được ít. Lần khác anh sẽ đi được nhiều hơn.
Thịnh đưa tay vuốt tóc Thảo. Làn tóc mây bềnh bồng phản chiếu ánh trăng mơ màng. Tà Nung đêm nay lạ lắm! Có đôi tình nhân đi với nhau không nói gì. Chỉ có mùi hương của hoa cà phê, mùi thơm của mít và mùi hương bưởi nói hộ với nhau. Trên trời có nhiều vì sao sáng nhưng sáng hơn cả là ánh trăng chiếu trên chiếc áo Thảo đang mặc. Hương đồng nội Tà Nung làm Thịnh cứ mãi đắm say muốn thời gian như thế cứ mãi dài hơn nữa.
Sáng hôm sau khi ánh mặt trời len dần qua ngọn núi, Thịnh chào gia đình bác Hai xong liền qua qua chào dì Thu để về lại Sài Gòn. Dì Thu và Thảo tiễn Thịnh ra cửa. Dì Thu gửi lời hỏi thăm ba mẹ Thịnh. Thịnh thấy Thảo đôi mắt thâm quầng chắc vì mất ngủ. Trong tay Thảo cầm một chiếc khăn mùi soa đã gấp. Thịnh bèn cất tiếng chào Thảo :
- Thôi anh về Sài Gòn nhé em!
Thảo không nói gì đem chiếc chiếc khăn dúi vào tay Thịnh và chạy vội vào nhà. Dì Thu bèn nói :
- Cái con này lạ thật! Anh về Sài Gòn không ra chào lại chạy đi đâu không biết nữa!
Chiếc xe đưa rước của nhà xe đã bấm còi ở ngoài đường. Thịnh vội chia tay dì Thu và bước lên xe. Thịnh thấy trong lòng hồi hộp vì không biết Thảo gửi gì cho mình trong chiếc khăn mùi xoa. Chiếc xe đưa rước lăn bánh. Ngồi trong xe, Thịnh cầm chiếc khăn lên và mở chiếc khăn ra. Một mùi thơm dìu dịu lan tỏa. Trong khăn thêu hình con bướm trắng và con bướm vàng đậu trên một bông cỏ may. Đường chỉ thêu rất mới. Bên cạnh hình hai con bướm còn thêu bốn câu thơ
Tà Nung nắng thắm mây ngàn
Có con bướm trắng bướm vàng vương vương
Gió về mây hỏi giọt sương
Sài Gòn người nhớ người thương không người?
Thịnh phóng tầm mắt qua cửa kính xe. Trên trời có hai đám mây đang trắng đang dắt tay nhau trôi lang thang. Bên đường có hàng ti-gôn đang khoe những cánh hoa trái tim nhỏ trong ánh nắng mai. Hai con ong đang hút mật trên bông hoa ti-gôn. Lòng Thịnh bỗng vui vui. "Phương Thảo ơi! Anh sẽ quay trở lại! Đợi anh nhé!", Thịnh tự nhủ!
Nguyễn Ngọc Giang