Đoạn cuối một chuyện tình
Phải rồi, ai mà cần đến tấm lòng của một gã hôi hám và bẩn thỉu như anh. Trao đi chân tình có bao giờ được đáp trả bằng chân tình đâu chứ.
(truyenngan.com.vn - Tác phẩm tham dự cuộc thi viết "Những câu chuyện cuộc đời")
***
Hoà sống trong một căn nhà ở ngoại ô thành phố. Nói là nhà thực chất đó là túp lều chỉ đủ che mưa tránh nắng. Không gian bên trong chật hẹp. Vài cái bát, vài chiếc tách đựng trà được làm bằng sành không còn nguyên vẹn. Chiếc giường xập xệ kê sát cửa sổ bị gãy mất hai song sắt. Nến chất đầy trên đầu tủ. Hoà đốt nến vào ban đêm thay cho ánh đèn neon rực rỡ nơi chốn đô thành. Sáp nến nhỏ thành giọt đông cứng như những tảng băng màu đỏ. Mùa hè quá nóng còn mùa đông thì lại quá lạnh.
Cạnh bên túp lều rách nát của Hoà là những ngôi nhà tranh nhỏ bé nằm rải rác của những người thợ đóng giày, thợ mộc rồi các cửa tiệm: tiệm đồng hồ và tiệm thuốc lá. Phía sau lều là một bức tường thành bằng đất cũ kỹ. Dưới chân tường, những bụi hoa dại cùng sơn trà mọc lấm tấm. Vào mùa đông, từ bên trong lùm cây um tùm, côn trùng kêu hoài không nghỉ khiến Hoà chẳng ngủ được. Những lúc như vậy, anh thường đốt đèn cầy lên, thức trắng đêm và suy nghĩ. Anh tự hỏi mình là con người, họ cũng là con người nhưng tại sao anh cứ mãi nghèo đói quanh năm đến cả tiền để mua một cốc rựu uống cho ấm bụng vào ngày đông giá rét cũng chẳng có.
Hoà kiếm sống bằng nghề quét dọn trong xưởng kim hoàn cách nơi anh ở mấy trăm dặm. Anh đi làm từ sáng sớm khi ánh dương còn chưa ló rạng đến tối mịt khi cả trăng và sao đều đã yên ngủ trong các vầng mây, mà lương cũng chỉ dăm ba đồng. Những buổi tối rảnh rỗi, anh đi trên vỉa hè bước dưới những toà cao ốc thắp điện sáng choang. Anh ngước nhìn và thầm ao ước giá như mình được một lần sống trong những căn biệt thự đó.
Hoà gầy gò, người đen nhẻm, mái tóc lúc nào cũng rối xù như tổ quạ. Dù chỉ hai mươi mấy tuổi nhưng với bộ áo quần luộm thuộm cùng mớ râu chưa kịp cạo, trông anh già đi rất nhiều so với tuổi thật. Trước đây, Hoà từng được sống trong những ngày sung sướng được ba mẹ yêu thương, không cần phải lo đến chuyện cơm áo gạo tiền. Rồi quãng thời niên thiếu êm đềm ấy vụt qua rất nhanh như sao băng trên trời, chưa kịp ước nguyện đã vội lụi tàn. Mẹ Hoà mất bởi một cơn bạo bệnh, ba anh đi thêm bước nữa. Chính người mẹ kế đã đẩy anh vào những ngày tháng khốn khó. Còn ba anh-một người đàn ông nhu nhược, chỉ biết nghe theo vợ. Không chịu nổi sự ngược đãi của người mẹ kế, Hoà bỏ nhà đi khi chưa đầy mười tám.
Công việc hằng ngày của Hoà là quét dọn trong xưởng kim hoàn. Có lẽ anh là người tốt bụng duy nhất còn sót lại trên thế gian khi nhìn những món đồ trang sức bằng vàng lấp lánh mà không nổi lòng ham muốn. Tất nhiên anh cũng muốn có nó. Nếu đánh cắp một món đồ trong xưởng và bán đi, anh sẽ có cả khối tiền, cuộc sống sẽ thôi chật vật nhưng anh không làm vậy, đơn giản rằng vì anh không có lòng tham.
Chủ xưởng là một người đàn ông đã li dị vợ từ hai năm trước. Kẻ Nam người Bắc. Cô con gái duy nhất của họ tên Thanh Nguyên sống với mẹ tận phương Bắc xa xôi đã nhiều năm không hiểu sao hôm nay lại đòi vào trong Nam, nói thế nào cũng không nghe. Thanh Nguyên chỉ mới mười ba tuổi, một mình đi tàu lửa, ông không yên tâm nên đã nhờ Hoà ra Bắc đón con bé. Thấy Hoà chăm chỉ lại thật thà nên ông tin tưởng anh hơn nữa ông bận một số việc không đi được, dĩ nhiên lộ phí đường đi, ông lo tất cả.
Khí hậu phương Bắc lạnh thấu xương. Vừa bước xuống tàu, Hoà chợt rùng mình vì lạnh. Cơn gió ập đến cuốn phăng chiếc mũ len anh đội trên đầu. Anh phải dành dụm rất lâu mới mua được nó vì thế anh đã đuổi theo lấy lại. Chiếc mũ nằm ngay dưới chân của một chiếc ghế đá. Trên ghế có một cô gái nhỏ nhắn đang ngồi. Cô gái lọt thỏm trong chiếc áo ấm dày cộm. Anh ngờ ngợ, cho tay vào túi lấy ra một bức ảnh rồi nhìn cô gái. Anh khẳng định cô bé ấy chắc chắn là Thanh Nguyên. Chủ xưởng cũng đã kể cho anh nghe nhiều về cô con gái của ông. Nhưng Thanh Nguyên có vẻ khó tiếp xúc. Anh chào hỏi, tự giới thiệu về mình bằng giọng điệu vui tươi, con bé vẫn im thin thít. Nét mặt lạnh như băng.
Trên đường về, Thanh Nguyên suốt buổi im lặng, thậm chí nhìn cảnh vật bên ngoài cửa sổ trong làn gió se sắt, Thanh Nguyên cũng không nở nụ cười nào. Hoà chiều chuộng cô bé hết mực. Anh hiểu rằng sở dĩ Thanh Nguyên cứ lầm lì là vì anh quá nhàm chán. Mà một người khô khan, làm việc quần quật như anh thì lấy đâu ra sự lãng mạn hay tạo tiếng cười cho Thanh Nguyên? Ngay cả khi anh kể chuyện cười anh cũng thấy những câu chuyện đó sao mà tẻ nhạt và buồn chán. Anh khiến con bé vui bằng cách nào đây? Đọc sách hay hát cho nó nghe những câu hát anh tự biến tấu?
Đoàn tàu vừa chạy ngang qua một con sông. Bóng hoàng hôn đỏ sẫm in xuống dòng nước trong vắt. Những gợn sóng nhỏ lăn tăn, những nhánh lá lay động bởi ngọn gió thổi tới từ đằng đông. Những hành khách trên toa tàu của Hoà đều đã ngủ say. Thanh Nguyên như pho tượng hoàn mỹ thời cổ đại, ngồi im mà không hé môi. Anh đoán con bé trầm ngâm suy tư về một vấn đề nào đấy, ở lứa tuổi này sao? Thật nực cười. Càng lúc anh càng thấy vẻ băn khoăn trên gương mặt Thanh Nguyên. Không thể cứ mãi im lặng như vậy, anh bèn kể về cuộc đời mình cho nó nghe. Những câu từ đứt quãng. Những lời văn không mạch lạc. Anh nhớ rõ từng chi tiết về quãng đời thơ ấu, ngôi nhà nhỏ bên cạnh tháp chuông cũ kỹ dẫn ra biển, những buổi chiều tan học rong ruổi trên triền dốc. Anh kể những câu chuyện ly kỳ về chú mèo máy Doraemon, và ao ước có được cỗ máy thời gian để quay lại những ngày xa xưa ấy... Anh cứ kể mãi, mặc cho Thanh Nguyên có nghe không, mặc cho con bé có hiểu không, anh vẫn cứ kể.
Hoà không tìm thấy bất cứ niềm vui nào trong những kí ức buồn bã đó để mang đến tiếng cười cho Thanh Nguyên. Nhưng khi bất chợt quay qua, anh chạm phải ánh mắt sáng rực của nó cùng vẻ mặt hào hứng. Thanh Nguyên bảo anh hãy kế tiếp đi, anh mừng thầm vì cuối cùng con bé cũng chịu mở lời. Nhưng câu chuyện của chính anh đã kết thúc. Không muốn Thanh Nguyên thất vọng, anh cố nặn óc nghĩ xem còn tình tiết nào chưa kể. Đã có lúc anh quên hết những kí ức đó rồi, có giữ lại cũng vô ích, mẹ anh đã không còn nữa, gia đình hạnh phúc anh từng có được giờ đã chia hai. Không ngờ rằng hôm nay anh lại khôi phục trí nhớ của mình và nhớ rõ đến vậy.
Thanh Nguyên lắc lắc cánh tay Hoà giục anh kể tiếp sau một khoảng lặng khá lâu. Hoà vắt óc suy nghĩ rồi anh khẽ kêu lên. Câu chuyện anh sắp sửa kể không phải do anh tận mắt chứng kiến mà anh nghe được từ một người hàng xóm kể lại. Trong thôn của Hoà có một bà lão làm nghề đan lát. Ngôi nhà của bà lúc nào cũng run run trước gió, chừng như muốn ngã sập. Buổi tối, bên trong không có lấy một ngọn đèn.
Người nọ kể luôn nhìn thấy bà ngồi bên hiên ngóng mắt về phương xa, bàn tay phải nắm chặt. Hẳn trong lòng bàn tay bà phải là một vật quý giá nên bà mới giữ chặt như thế nhưng thực chất đó chỉ là một chiếc nhẫn đã bạc màu. Lớp mạ vàng bên ngoài bị tróc ra một mảng. Trông nó thô kệch và xấu xí. Có lần bà đánh rơi chiếc nhẫn, bà gần như phát điên lên khi làm mất nó. Và khi tìm lại được bà nâng niu chiếc nhẫn cũ kỹ ấy như một báu vật. Mọi người trong thôn ngạc nhiên khi thấy bà không vứt chiếc nhẫn đi mà trái lại giữ gìn thật cẩn thận. Bà nói đó là kỷ vật của người chồng quá cố của bà để lại.
Thời còn con gái tuổi mơn mởn, bà tình cờ gặp một vị công chức giàu có. Tình yêu đến rất nhanh, bất chấp sang hèn. Chiếc nhẫn mà bà hiện đang nắm giữ chính là lời cầu hôn của chồng bà, minh chứng cho một tình yêu sắt son, bền vững. Thật vậy, từ khi lấy nhau, cuộc sống của hai vợ chồng chưa từng xảy ra một lần cãi vã nhưng không kéo dài bao lâu. Viên chức bị ám sát khi ông tố cáo lên ban lãnh đạo việc làm xấu xa của một nhân viên cấp dưới. Sau khi ông mất, bà quyết không lấy ai cả, ở vậy thờ chồng cho đến lúc bà nhắm mắt xuôi tay theo ông.
"Chiếc nhẫn tuy cũ nhưng chứa chan tình cảm. Trên đời này thứ quý nhất chẳng phải là tình yêu hay sao." Kể xong, Hoà kết luận. "Em có hiểu gì không?"
Thanh Nguyên giương mắt nhìn anh, không tỏ thái độ gì.
Nắng tắt nhường chỗ cho bóng đêm. Bên ngoài khung cửa kính vài con đom đóm bay lập loè song song cùng với đoàn tàu. Ánh sáng của chúng yếu ớt chỉ đủ để nhìn thấy một vạt cây dao động trong gió.
"Anh Hoà ơi, em cũng muốn có một chiếc nhẫn." Thanh Nguyên cất giọng. Gió lùa vào làm cho mái tóc nó bay bay.
"Dĩ nhiên rồi." Hoà trả lời. "Sau này khi em lớn lên, gặp được tình yêu của mình, chàng trai đó sẽ đeo nhẫn vào ngón áp út cho em."
"Còn câu chuyện nào nữa không anh?"
"Hết rồi." Hoà chưa từng bịa đặt bao giờ. Không phải anh không biết nói dối chỉ là anh thấy không cần phải làm vậy. Với lại giờ đây anh coi việc tạo niềm vui cho Thanh Nguyên là bổn phận cao cả.
Hoà dẫn Thanh Nguyên về nhà, trao tận tay cho ba của cô bé. Ông cảm ơn anh rối rít, còn thưởng anh một món tiền khá lớn nhưng anh lắc đầu từ chối. Anh giúp đỡ người khác không phải vì tiền.
Hoà bỏ đi. Được nửa đoạn thì ngoảnh đầu lại nhìn lên ô cửa sổ tầng hai, là phòng của Thanh Nguyên. Rèm cửa bay theo từng nhịp gió. Anh đi vào phố nhỏ rồi lại đi ra phố lớn, đi qua những con đường nhỏ hẹp và những giao lộ rộng thênh thang. Trong túi áo của anh là chiếc kẹp tóc màu xanh nhạt mà anh mua trước khi đón Thanh Nguyên định tặng cho con bé mà quên mất hoặc cũng có thể anh không đủ can đảm để làm điều đó.
Kể từ ngày rời khỏi quê nhà, Hoà nếm trải đủ mọi thống khổ này đến cay đắng khác. Nghề nào anh cũng làm nhiều nhất là vài ba tháng, ít nhất là một tuần và cuối cùng anh trở thành người quét rác cho xưởng kim hoàn. Bụi bẩn bám đầy người. Anh nhìn thấy bụi còn nhiều hơn các món ăn ngon trong nhà hàng, thậm chí trong từng cơn gió luồn vào thành phố, anh chỉ nghe thấy mỗi âm thanh lạo xạo của bụi bay mịt trời.
Mùa nối mùa trôi đi. Đông tàn rồi đông lại đến. Những đêm giá buốt, anh cuộn mình trong tấm chăn mỏng nghĩ về con đường tương lai phía trước. Anh thấy bất an khi không tìm thấy một tia nắng nào trên con đường đó dù là tia nắng mỏng manh còn sót lại giữa mùa đông rét mướt. Nhưng đôi khi trong những ngày khốn khổ ấy, Hoà lại thấy hiện lên trong đầu mình một áng mây trắng bồng bềnh cứu rỗi anh khỏi những ý nghĩ tiêu cực: đó là gương mặt xinh xắn của Thanh Nguyên. Anh không biết mình nghĩ về cô bắt đầu từ khi nào, chỉ biết rằng sau mỗi giờ làm, anh hay đi ngang qua nhà cô, ngó lên khung cửa sổ tầng hai có bức rèm phất phơ theo những khúc ca của gió và thấy ấm lòng đôi chút.
Thanh Nguyên bây giờ đã là một thiếu nữ hai mươi xinh đẹp rạng ngời. Cô hiện đang theo học tại một trường đại học danh tiếng trong thành phố. Anh tự hỏi cô còn nhớ anh không. Kể từ cái ngày ở sân ga hôm ấy tính đến nay cũng đã bảy năm. Thời gian trôi qua quá nhanh, phủ bụi mờ lên tất cả mọi thứ. Anh ở gần bên cô nhưng chưa một lần chủ động tiến đến bắt chuyện. Sở dĩ ngày ấy anh dễ dàng nói chuyện bởi vì Thanh Nguyên khi đó chỉ là một cô bé mười ba tuổi giờ đây cô đã hai mươi xuân xanh, dĩ nhiên là rất khó để mở lời. Công việc quét rác về đêm của Hoà khiến cả người anh đầy hôi hám, tiếp xúc với bụi bẩn và lũ chuột cống, anh sợ nếu lại gần Thanh Nguyên, cô sẽ không chịu được mùi hôi ấy.
Có hôm xong việc, Hoà không về túp lều của mình mà lang thang suốt đêm. Đường phố yên ắng. Nhà nhà đều đóng cửa. Chỉ có những vì tinh tú trên trời cao là thức cùng anh. Đây là khoảng thời gian anh thấy thảnh thơi nhất cũng là khoảnh khắc anh nghĩ đến cuộc đời mình nhiều nhất.
Bình minh xua tan bóng tối mang nắng chiếu rọi thành phố. Sớm tinh mơ, ở một số nơi, sương mù giăng phủ nhưng không quá dày. Hoà chậm rãi bước xuống dốc đầy hoa dại. Con đường không có ai ngoại trừ một người con gái khoác áo măng tô đứng kế bên bốt điện thoại, vẻ mặt ưu tư. Khi chỉ còn cách cô gái vài ba bước chân, anh nhận ra người đó chính là Thanh Nguyên. Một thoáng hương xuân phảng phất qua tâm trí anh giữa những cơn gió bấc lạnh lẽo.
Hoà tiến lại gần, cất giọng niềm nở. "Em còn nhận ra anh chứ? Anh là Hoà, người đã từng đón em ở sân ga bảy năm về trước."
Thanh Nguyên ngước lên nhìn anh một giây, thờ ơ đáp. "Thì ra là anh, em nhớ rồi."
Đây là cơ hội để Hoà chiêm ngưỡng nhan sắc thuần khiết của Thanh Nguyên. Môi cô như cánh đào đỏ thắm. Đôi mắt như hai viên pha lê đen trong suốt. Họ bước cạnh nhau nhưng vẫn giữ một khoảng cách vừa phải.
Hoà chưa bao giờ nghĩ điều khiến Thanh Nguyên u sầu là vì một người khác. Anh ngước mặt lên trời nén tiếng thở dài. Cuối cùng cô gái bé nhỏ mà anh thương yêu đã rơi vào lưới tình với anh chàng hoạ sĩ điển trai, con nhà quý tộc. Vì một lý do nào đấy mà họ giận nhau nhưng chẳng bên nào chịu lên tiếng xin lỗi trước. Vì đây là mối tình đầu nên Thanh Nguyên không muốn chia tay sớm như vậy hơn nữa quan trọng là tình cảm trong cô vẫn còn đầy. Giờ cô không biết phải làm sao?
Thấy Thanh Nguyên ôm mặt khóc rưng rức. Hoà không kìm được, bèn nói. "Anh hứa sẽ giúp hai em giảng hoà."
"Thật sao?" Thanh Nguyên nhìn anh bằng cặp mắt đỏ hoe.
Nhìn cái gật đầu quả quyết của Hoà, Thanh Nguyên đưa cho anh một lá thư nhờ anh mang đến cho người yêu cô. Ban đầu chàng hoạ sĩ nghi ngờ mối quan hệ giữa Hoà và Thanh Nguyên, sau đó còn nói những lời khó nghe. Anh không kiềm chế được cơn tức giận và đã cho tên khốn - khiến Thanh Nguyên mất ăn mất ngủ - một bài học và còn dạy anh ta về lòng chân thành. May một điều chàng hoạ sĩ kia không phải là kẻ vô học, anh ta trầm ngâm suy nghĩ, nhận ra lỗi lầm và còn cảm ơn Hoà vì đã giúp mình nghĩ thông suốt.
Ngày hôm sau, chàng hoạ sĩ tìm gặp Thanh Nguyên. Một bó hoa, một lời xin lỗi và một cái ôm thắm thiết. Hoà thấy vui vì nụ cười của Thanh Nguyên và giấu đi buồn đau vào tim.
Một hôm trong lúc hốt rác cho xưởng, Hoà vô tình xem lỏm cách mà thợ kim hoàn đánh thành những chiếc nhẫn, còng tay hay hoa tai xinh xắn. Đột nhiên một sáng kiến loé lên trong đầu anh. Nếu như mình có thể tận tay đúc thành một chiếc nhẫn làm quà tặng sinh nhật tuổi hai mươi cho Thanh Nguyên thì ý nghĩa biết mấy. Tuy chỉ là thoáng qua nhưng sáng kiến đó khiến anh suy nghĩ mãi và anh quyết định sẽ làm.
Hoà nói với chủ xưởng, xin học việc. Ông chỉ ngạc nhiên rồi nhận anh làm học trò. Anh không kể cho ai nghe về chuyện đó, chỉ âm thầm học hỏi, chăm chỉ đến mức quên ăn. Anh cũng biết để đúc thành một món trang sức cần rất nhiều thời gian. Hết mùa đông là tới sinh nhật Thanh Nguyên, anh hy vọng sẽ kịp. Anh không đòi hỏi gì cả cũng chẳng trông mong Thanh Nguyên sẽ biết tình cảm của anh. Chỉ là một món quà nho nhỏ bằng tất cả tình thương mến dồn nén bao nhiêu năm qua trong tận đáy lòng anh dành cho Thanh Nguyên vào ngày sinh nhật thôi. Nhưng trớ trêu thay, đổi lại sự chăm chỉ của anh là những cuộc hẹn vui vẻ của Thanh Nguyên với chàng hoạ sĩ kia. Anh từ lâu đã biết Thanh Nguyên không hề có ý gì với mình. Với cô, anh có lẽ giống như một người quen biết trên chuyến tàu thiếu niên năm ấy. Phải rồi, ai mà cần đến tấm lòng của một gã hôi hám và bẩn thỉu như anh. Trao đi chân tình có bao giờ được đáp trả bằng chân tình đâu chứ.
Ngày Hoà đánh xong chiếc nhẫn, Thanh Nguyên đã đi du học cùng vị hôn phu của cô. Nghe nói họ không về nữa, họ sẽ sinh sống và lập nghiệp ở cái đất nước mà anh không thể đặt chân tới được. Anh ngước nhìn bầu trời và thấy một mảnh trời xanh bé xíu lấp ló ở một góc xa xa rồi nhanh chóng bị mây mù che khuất. Bầu trời trong anh chỉ còn lại một màu xám xịt. Những kí ức về Thanh Nguyên nhạt dần và biến thành một mảnh sắt hoen ố.
Vào mùa đông, côn trùng và muỗi nhiều vô kể. Chúng bay thành từng đàn xung quanh bụi cỏ rậm rạp, bay hẳn vào phòng Hoà qua ô cửa để mở. Tiếng vo ve của chúng làm anh không tài nào ngủ được. Trong căn lều rách bươm không có dụng cụ đuổi muỗi. Anh bị chúng chích nhiều đến nỗi cả tay chân anh xuất hiện những vệt đỏ thẫm như máu. Anh ho liên tục và anh ngã bệnh. Căn bệnh sốt rét ấy đã rút mòn sức lực của anh.
Không một ai đến thăm Hoà cũng chẳng có tiền để đi trạm xá. Ngoại trừ ông thầy bói hay lảng vảng ngoài cổng, lúc nào cũng bắt anh để ông bói cho một quẻ nhưng anh từ chối. Không ai hiểu mình bằng chính bản thân mình. Cuộc đời anh từ lúc trẻ cho đến tận hôm nay có bao nhiêu ngày vui. Anh nghĩ mình sắp chết nên chẳng cần phải bói.
Căn bệnh càng lúc càng nặng. Hoà xin nghỉ việc ở xưởng kim hoàn. Suốt ngày anh chỉ nằm co ro trong túp lều của mình. Mắt nhắm nghiền. Có lúc anh cười, có lúc anh khóc. Ban đầu hơi thở còn nhè nhẹ sau dần trái tim anh ngừng đập hẳn. Giờ thì anh đã đoàn tụ cùng với mẹ của mình cũng là lúc anh không còn phải chịu đau đớn và bị hành hạ bởi cơn đói nữa. Đôi khi chỉ có cái chết mới khiến con người có được những giây phút yên bình.
Lúc ấy là vào cuối đông. Đợt gió cuối cùng thổi mạnh hơn bao giờ hết, thổi cho rèm cửa bay phần phật, thổi tắt hết những đốm lửa nhấp nháy trong lò sưởi. Lo hậu sự cho Hoà vẫn là ông thầy bói hôm nào. Chiếc nhẫn rơi ra từ lòng bàn tay anh. Trên bề mặt nhẫn có khắc một dòng chữ be bé. Ông đoán đó là tên của người mà anh từng rất thương. Săm soi chiếc nhẫn, ông lẩm bẩm. "Chiếc nhẫn này không có chủ nhân nhưng lại đong đầy tình cảm của người làm ra nó."
Quách Thái Di